CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II - TUYÊN NGÔN VỀ TỰ DO TÔN GIÁO

07 / 08/ 2015, 04:08:27

PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ

 

TUYÊN NGÔN
VỀ TỰ DO TÔN GIÁO

DIGNITATIS HUMANAE
Ngày 7 tháng 12 năm 1965

 

QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO CỦA CÁ NHÂN VÀ ĐOÀN THỂ LÀ MỘT QUYỀN LỢI XÃ HỘI VÀ DÂN SỰ

1.

Con người thời đại chúng ta ngày càng ý thức hơn về nhân phẩm1, và càng lúc càng có thêm người đòi hỏi cho con người khả năng hành động theo sự lựa chọn của chính mình và trong tinh thần trách nhiệm hoàn toàn tự do, không bị chi phối bởi bất cứ áp lực nào, nhưng được hướng dẫn bởi ý thức về bổn phận của con người. Cũng thế, họ đòi hỏi phải có một giới hạn pháp lý đối với việc thực thi quyền bính của chính quyền, để ngừa tránh việc hạn chế quá đáng vi phạm tự do chân chính, thuộc cá nhân cũng như tập thể. Việc đòi hỏi quyền tự do này trong xã hội nhân loại chủ yếu nhắm đến những đặc quyền của tinh thần con người, và trước tiên là quyền tự do hành đạo trong xã hội. Vì ân cần quan tâm và muốn tuyên nhận những khát vọng tinh thần ấy thật sự phù hợp với chân lý và công bình, nên Công Đồng Vaticanô này tìm hiểu kỹ càng thánh truyền và giáo thuyết của Giáo Hội, để từ đó đưa ra những điều mới nhưng vẫn luôn hoà hợp với những điều đã từng được công bố.

Vì thế, trước tiên Thánh Công Đồng tuyên bố rằng chính Thiên Chúa đã dẫn đường chỉ lối cho nhân loại, để khi biết phụng thờ Ngài, con người có thể được cứu rỗi và hưởng nhận hạnh phúc trong Chúa Kitô. Chúng tôi tin rằng tôn giáo chân thật duy nhất này chính là Giáo Hội Công giáo và tông truyền, Giáo Hội phải được truyền bá đến cho mọi người theo như nhiệm vụ đã được Chúa Giêsu ủy thác, khi Người phán cùng các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19-20). Quả thế, mọi người đều phải tìm kiếm chân lý, nhất là những chân lý liên quan tới Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài, và khi đã nhận biết, phải tin nhận và trung thành tuân giữ.

Cũng thế, Thánh Công Đồng tuyên bố rằng những bổn phận ấy có liên quan và mang tính bó buộc đối với lương tâm, và chân lý chỉ áp đặt trên con người bằng sức mạnh của chính chân lý, một sức mạnh thấm vào tâm hồn với cách thức vừa êm dịu vừa mãnh liệt. Hơn nữa, quyền tự do tôn giáo mà con người đòi hỏi trong khi thực thi phận vụ phụng thờ Thiên Chúa, liên quan tới sự miễn trừ khỏi mọi áp chế trong xã hội dân sự, vì thế quyền tự do đó hoàn toàn phù hợp với giáo lý truyền thống công giáo, về bổn phận luân lý của các cá nhân cũng như của những đoàn thể xã hội đối với tôn giáo chân thật là Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô. Hơn nữa, khi bàn về tự do tôn giáo, Thánh Công Đồng muốn khai triển học thuyết của các vị Giáo Hoàng gần đây nhất về những quyền lợi bất khả xâm phạm của con người cũng như về cơ cấu pháp lý của xã hội.

 

I. QUAN ĐIỂM TỔNG QUÁT VỀ TỰ DO TÔN GIÁO

2.

Thánh Công Đồng tuyên bố con người có quyền tự do tôn giáo. Sự tự do này được hiểu là tình trạng con người không bị xâm phạm bởi một áp chế nào từ cá nhân, đoàn thể xã hội hay bất cứ quyền bính nhân loại nào khác, để trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù hành động đó là riêng tư hay công khai, làm một mình hay cùng với người khác, được thực hiện trong những giới hạn chính đáng. Hơn nữa, Thánh Công Đồng còn tuyên bố rằng tự do tôn giáo thực sự được xây dựng trên chính phẩm giá con người, theo như Lời Thiên Chúa mặc khải và chính lý trí cho biết1. Quyền tự do tôn giáo của con người trong cơ chế pháp lý của xã hội phải được thừa nhận với những giá trị của một điều luật dân sự.

Xét theo phẩm giá, vì là những nhân vị, nghĩa là có lý trí và ý chí tự do, vì thế cũng có trách nhiệm cá nhân, nên tất cả mọi người, do bản tính tự nhiên thúc đẩy và bổn phận luân lý đòi buộc, luôn kiếm tìm chân lý, nhất là chân lý liên quan đến tôn giáo. Họ cũng luôn gắn bó và định hướng toàn thể cuộc sống theo những đòi hỏi của chân lý đã nhận biết. Tuy nhiên, con người chỉ có thể thực thi đòi hỏi này, theo cách thức phù hợp với bản tính của mình, khi vừa có được tự do tâm lý vừa không bị chi phối bởi áp lực bên ngoài. Như vậy quyền tự do tôn giáo đặt nền tảng trên chính bản tính nhân loại, chứ không phải trên thái độ chủ quan của con người. Vì thế, cả những người không muốn chu toàn bổn phận tìm kiếm và gắn bó với chân lý cũng vẫn có quyền không bị cưỡng chế; và việc thực thi quyền này không thể bị ngăn cản, miễn là trật tự công cộng chính đáng vẫn được bảo toàn.

Con người và Thiên Chúa

3.

Những điều trên đây sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chấp nhận rằng tiêu chuẩn tối thượng của đời sống con người chính là thiên luật mang tính vĩnh cửu, khách quan và phổ cập, qua luật này Thiên Chúa xếp đặt, hướng dẫn và điều khiển toàn thể hoàn vũ, đồng thời cũng xác định hướng đi của các cộng đồng nhân loại trong ý định khôn ngoan và đầy yêu thương của Ngài. Thiên Chúa cho con người được tham dự vào lề luật của Ngài, để nhờ sự an bài ưu ái của ơn quan phòng, con người càng ngày càng có thể nhận biết sâu sắc hơn về chân lý vĩnh hằng2. Vì thế, mỗi người đều có bổn phận, và do đó có quyền tìm kiếm chân lý trong lãnh vực tôn giáo, để cẩn trọng đào luyện lương tâm theo những phán đoán ngay thẳng và chân thật, nhờ biết sử dụng những phương thế thích hợp.

Tuy nhiên, phải thực hiện việc tìm kiếm chân lý theo cách thế xứng hợp với phẩm giá và bản tính xã hội của con người, nghĩa là bằng việc tự do tìm kiếm, bằng cách học hỏi hoặc nhờ người hướng dẫn, bằng cách trao đổi và đối thoại, nhờ đó con người bày tỏ cho nhau biết chân lý mà mình tìm được hay nghĩ là đã tìm được, để giúp nhau trong việc khám phá chân lý; khi đã tìm thấy, mỗi người phải kiên quyết gắn bó với chân lý bằng cả niềm xác tín cá nhân.

Thật ra, chính qua trung gian lương tâm mà con người nhận thức và hiểu biết những mệnh lệnh của thiên luật; con người phải trung thành tuân theo lương tâm trong mọi hành động để đạt tới cùng đích đời mình là chính Thiên Chúa. Vì thế, không ai bị cưỡng bách hành động trái với lương tâm, cũng như không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm nhất là trong lãnh vực tôn giáo. Thật vậy, tự bản chất, việc thực hành tôn giáo hệ tại trước tiên ở những hành vi nội tâm tự nguyện và tự do, qua đó con người trực tiếp hướng về Thiên Chúa: không một quyền bính thuần nhân loại nào có thể ép buộc hay ngăn cản những hành vi ấy3. Đàng khác, chính bản tính xã hội đòi hỏi con người phải diễn tả những hành vi tôn giáo trong tâm hồn ra bên ngoài, cũng như cần có những trao đổi với người khác về vấn đề tôn giáo, và tuyên xưng tôn giáo của mình dưới hình thức cộng đoàn.

Như thế, chối bỏ quyền tự do hành đạo của con người trên bình diện xã hội, trong khi trật tự công cộng vẫn được bảo đảm, cũng có nghĩa là xúc phạm đến chính nhân vị và trật tự mà Thiên Chúa đã ấn định cho con người.

Hơn nữa, theo bản chất, những hành vi tôn giáo, dù riêng tư hay công khai, qua đó con người tự ý hướng tới Thiên Chúa, đều vượt trên phạm vi trần thế và thời gian hữu hạn này. Vì thế, quyền bính dân sự với mục đích chuyên biệt là phục vụ công ích trần thế, phải nhìn nhận và nâng đỡ đời sống tôn giáo của người công dân, nhưng quyền bính này sẽ vượt quá giới hạn của mình nếu tìm cách chi phối hay ngăn cản hành vi tôn giáo.

Cộng đồng tôn giáo

4.

Quyền tự do hay quyền bất khả áp chế trong lãnh vực tôn giáo đối với từng cá nhân, cũng phải được thừa nhận khi họ hoạt động chung với nhau. Thật vậy, bản tính xã hội của con người cũng như của tôn giáo đều đòi phải có những cộng đồng tôn giáo.

Vì thế, miễn sao không phương hại đến những yêu cầu chính đáng của trật tự công cộng, các cộng đồng tôn giáo phải được quyền tự do, để có thể sinh hoạt theo những quy định riêng, để công khai phụng thờ Đấng Tối Cao, giúp các tín hữu thực thi đời sống tôn giáo đồng thời luôn được củng cố trong giáo lý, cũng như để phát triển các tu hội, trong đó các thành viên cùng nhau tổ chức một nếp sống đặc thù theo những nguyên tắc tôn giáo của cộng đoàn.

Các cộng đồng tôn giáo cũng có quyền đòi các cơ quan lập pháp hay hành pháp thuộc chính quyền dân sự không được ngăn cản họ trong việc chọn lựa, đào tạo, bổ nhiệm và thuyên chuyển các chức sắc thuộc quyền, trong việc liên lạc với giáo quyền và những cộng đồng tôn giáo ở những nơi khác trên hoàn cầu, trong việc thiết lập các cơ sở tôn giáo cũng như sở hữu và quản trị những tài sản thích hợp.

Các cộng đồng tôn giáo cũng có quyền công khai giảng dạy và minh chứng đức tin của mình bằng lời nói và bằng chữ viết mà không bị cấm cản. Nhưng trong khi truyền bá đức tin tôn giáo và trình bày những phương thức hành đạo, phải luôn tránh mọi hành động có tính cách ép buộc, dụ dỗ cách không ngay chính hay thiếu trung thực, nhất là đối với những người chất phác và nghèo túng. Hành động như thế là lạm dụng quyền hạn của mình và xâm phạm quyền lợi của người khác.

Ngoài ra, tự do tôn giáo còn có nghĩa là các cộng đồng tôn giáo không bị ngăn cản trong việc tự do chứng tỏ giá trị riêng biệt của mỗi giáo thuyết trong việc tổ chức xã hội và làm sống động các sinh hoạt nhân văn. Sau cùng, xã hội tính của con người cũng như chính bản chất của tôn giáo là nền tảng căn bản để cho con người, khi được cảm thức tôn giáo thúc đẩy, có quyền tự do hội họp hay thành lập những hiệp hội giáo dục, văn hoá, từ thiện và xã hội.

5.

Mỗi gia đình, với tư cách là một cộng đồng xã hội có những quyền căn bản đặc thù, phải được tự do trong việc tổ chức đời sống tôn giáo tại gia dưới sự hướng dẫn của cha mẹ. Cha mẹ có quyền xác định đường hướng giáo dục con cái theo tôn giáo mình tin tưởng. Vì thế, quyền bính dân sự phải công nhận quyền tự do thực sự của cha mẹ trong việc lựa chọn trường học và những phương tiện giáo dục khác, cũng như không được trực tiếp hay gián tiếp bắt ép họ phải chịu những gánh nặng bất công chỉ vì đã được tự do chọn lựa. Ngoài ra, quyền lợi của cha mẹ sẽ bị xâm phạm, nếu con cái bị cưỡng bách theo học những môn học không thích hợp với tín ngưỡng của cha mẹ, hay bị bó buộc phải theo một hệ thống giáo dục độc đoán hoàn toàn loại bỏ chương trình đào tạo tôn giáo.

6.

Công ích xã hội bao gồm tất cả những điều kiện của đời sống cộng đồng, nhằm giúp con người có thể đạt tới sự hoàn hảo của bản thân cách đầy đủ và dễ dàng hơn; công ích ấy hệ tại trước tiên ở việc bảo toàn những quyền lợi và nghĩa vụ của con người4, vì thế, việc quan tâm bảo vệ quyền tự do tôn giáo chính là trách nhiệm của các công dân, đoàn thể xã hội, quyền bính dân sự cũng như của Giáo Hội và các cộng đồng tôn giáo khác, tuỳ theo cách thế và khả năng riêng, dựa trên nghĩa vụ của tất cả mọi người đối với công ích.

Nhiệm vụ chính yếu của quyền bính dân sự là bảo vệ và phát huy những quyền bất khả xâm phạm của con người5. Vì thế, quyền bính dân sự phải bảo vệ cách hữu hiệu quyền tự do tôn giáo của mọi công dân bằng những đạo luật chính đáng và những phương tiện thích hợp khác, cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành đời sống tôn giáo, để các công dân có thể thực sự hưởng dụng những quyền lợi và chu toàn các bổn phận tôn giáo, đồng thời cũng để xã hội được hưởng nhờ những thiện ích của công lý và hoà bình, hệ quả phát sinh từ thái độ trung thành của con người đối với Thiên Chúa và thánh ý Ngài6.

Tôn giáo trong gia đình - xã hội

Những dân tộc, nếu vì những hoàn cảnh đặc biệt, đã dành riêng cho một cộng đồng tôn giáo nào đó sự công nhận dân sự đặc biệt trên bình diện pháp lý của xã hội, thì cùng lúc cũng cần phải công nhận và tôn trọng quyền tự do tôn giáo của tất cả các công dân và các cộng đồng tôn giáo khác.

Sau cùng, quyền bính dân sự phải giám sát cẩn thận, không bao giờ để cho quyền bình đẳng trên phương diện pháp lý của các công dân, một quyền lợi gắn liền với công ích xã hội bị xâm phạm, dù cách công khai hay kín đáo vì những lý do tôn giáo, cũng như đừng để nảy sinh thái độ phân biệt đối xử giữa các công dân.

Do đó, công quyền không được dùng bạo lực, cách thức hăm dọa hay những phương thế khác để ép buộc người dân phải tin theo hay chối bỏ bất cứ tôn giáo nào, hoặc ngăn cản không cho họ gia nhập hay rời bỏ một cộng đồng tôn giáo. Nếu công quyền sử dụng bạo lực dưới bất cứ hình thức nào để tiêu diệt hay cấm đoán một tôn giáo, hoặc trong toàn thể nhân loại, hoặc trong một miền hay trong một nhóm người, đó sẽ là một hành động trái ngược với thánh ý Thiên Chúa và vi phạm những quyền lợi thiêng liêng của cá nhân cũng như của gia đình các dân tộc.

Giới hạn của tự do

7.

Quyền tự do trong lãnh vực tôn giáo được thực thi trong xã hội loài người, vì thế khi sử dụng quyền này cần phải tuân theo một vài quy tắc hướng dẫn.

Khi sử dụng các quyền tự do, phải luôn tuân thủ nguyên tắc luân lý về trách nhiệm cá nhân và xã hội: luật luân lý đòi buộc từng người và cả tập thể xã hội, khi sử dụng những quyền lợi của mình, phải biết quan tâm đến quyền lợi của người khác, phải nhớ đến nghĩa vụ của mình đối với tha nhân và lợi ích chung của mọi người. Phải đối xử với mọi người theo lẽ công bình và tình nhân ái.

Ngoài ra, xã hội dân sự có quyền tự bảo vệ chống lại những lạm dụng có thể nẩy sinh dưới chiêu bài tự do tôn giáo, vì thế, chính công quyền dân sự phải bảo đảm cho quyền tự vệ này; tuy nhiên không được hành động cách tuỳ tiện hay thiên vị một phe phái nào, nhưng phải dựa trên những tiêu chuẩn pháp lý phù hợp với trật tự luân lý khách quan, những tiêu chuẩn cần thiết để bảo vệ hữu hiệu và dàn xếp ôn hoà quyền lợi của mọi công dân, để chăm lo đầy đủ cho sự an bình công cộng vốn chỉ có được khi mọi người biết cùng sống với nhau trong công chính đích thực, và để bảo vệ được nền luân lý nơi cộng đồng. Tất cả những điều đó là yếu tố chính tạo nên công ích và đóng góp vào nền trật tự công cộng. Ngoài ra, cần phải duy trì nguyên tắc chung về việc bảo đảm tự do toàn vẹn trong xã hội, theo đó, quyền tự do dành cho con người phải được công nhận đến mức tối đa, và chỉ bị hạn chế khi cần thiết và trong mức độ cần thiết mà thôi.

Đào tạo về tự do

8.

Con người thời đại chúng ta thường phải chịu nhiều thứ áp lực và có nguy cơ không còn được hành động theo phán đoán tự do của bản thân. Nhưng trong khi đó, nhiều người lại dựa vào chiêu bài tự do, để rồi như muốn chối bỏ mọi sự lệ thuộc quyền bính và coi nhẹ bổn phận vâng phục chính đáng.

Vì thế, Công Đồng Vaticanô này kêu gọi tất cả mọi người, đặc biệt những ai đang thi hành sứ mạng giáo dục, hãy chú tâm vào việc đào tạo những con người, trong khi vẫn tuân theo trật tự luân lý, biết phục tùng quyền bính hợp pháp đồng thời cũng biết quý chuộng tự do đích thực; những con người biết tự mình thẩm định các sự việc dưới ánh sáng chân lý, biết hành động với tinh thần trách nhiệm và nỗ lực vươn đến những gì là chân thật và công chính, bằng cách luôn sẵn lòng cộng tác với người khác.

Như vậy, tự do tôn giáo phải đem lại kết quả và đạt đến mục đích này là giúp cho con người, khi chu toàn những bổn phận của mình trong đời sống xã hội, luôn hành động với ý thức trách nhiệm sâu sắc hơn.

 

II. TỰ DO TÔN GIÁO DƯỚI ÁNH SÁNG MẶC KHẢI

9.

Phẩm giá của con người chính là nền tảng cho những điều Công Đồng Vaticanô này tuyên bố về quyền tự do tôn giáo của con người, và kinh nghiệm của bao thế hệ đã giúp cho lý trí nhân loại ngày càng thấy rõ những yêu cầu của chính nhân phẩm. Hơn nữa, giáo thuyết về tự do tôn giáo bắt nguồn từ Mặc khải của Thiên Chúa, nên người Kitô hữu càng phải thành kính tuân theo. Thật vậy, mặc dù không minh nhiên xác nhận quyền bất khả xâm phạm đối với mọi áp chế bên ngoài trong những điều liên quan đến tôn giáo, nhưng Mặc khải đã cho biết về nhân phẩm trong tất cả mọi chiều kích, đã cho thấy Chúa Kitô luôn tôn trọng tự do của con người trong việc thi hành bổn phận tin vào Lời Chúa, và cũng đã dạy chúng ta về tinh thần mà những môn đệ của vị Tôn sư cao cả phải hiểu biết và noi theo trong mọi hành động. Tất cả những điều trên làm sáng tỏ những nguyên tắc tổng quát được đặt làm nền tảng cho giáo thuyết về tự do tôn giáo của bản Tuyên Ngôn này. Điều đáng nói hơn cả là quyền tự do tôn giáo trong xã hội hoàn toàn phù hợp với thái độ tự do của hành vi đức tin Kitô giáo.

Tự do và đức tin

10.

Điểm chính yếu của học thuyết công giáo, được chứa đựng trong Lời Chúa và từng được các Giáo phụ giảng dạy1, là con người phải đáp lại ơn gọi đức tin vào Thiên Chúa cách tự nguyện. Do đó, không được cưỡng bách bất cứ ai phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn2. Thật vậy, tự bản chất, hành vi đức tin là một hành vi tự ý, vì khi đã được cứu chuộc nhờ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, và được mời gọi trở nên dưỡng tử nhờ Đức Giêsu Kitô3, con người chỉ có thể gắn bó với Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải, khi được Chúa Cha lôi kéo4, và khi tin phục Thiên Chúa với cả lý trí và tự do. Vì thế, trong lãnh vực tôn giáo, việc loại trừ mọi hình thức áp chế đối với con người là điều hoàn toàn phù hợp với bản chất của đức tin. Bởi đó, chủ trương tự do tôn giáo sẽ góp phần không nhỏ vào việc tạo điều kiện thuận lợi giúp con người có thể dễ dàng được mời gọi đến với đức tin Kitô giáo, tự ý đón nhận và tuyên xưng đức tin ấy cách nhiệt thành trong cả cuộc sống.

Gương Đức Kitô

11.

Thiên Chúa mời gọi con người phụng thờ Ngài trong tinh thần và chân lý, và con người chấp nhận gắn bó với Ngài bằng cả ý thức chứ không hề bị cưỡng bách. Thật vậy, Thiên Chúa tôn trọng phẩm giá của những con người do chính Ngài tạo nên, những người phải sống theo phán đoán của chính mình và phải được tự do. Điều này được tỏ hiện cách tuyệt hảo nơi Đức Kitô Giêsu, trong Người, Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn chính mình và những đường lối của Ngài. Chúa Kitô là Thầy và là Chúa chúng ta5, Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng6, chính Người đã kiên nhẫn dìu dắt và mời gọi các môn đệ7. Quả thật, Người đã chứng thực và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ để khơi dậy và kiện cường lòng tin của những kẻ đang nghe Người, chứ không phải để tạo áp lực cưỡng ép họ8. Rõ ràng Người đã khiển trách những kẻ nghe mà không tin, tuy nhiên quyền luận phạt vẫn được dành cho Thiên Chúa vào ngày phán xét9. Khi sai các Tông đồ đi khắp thế gian, Người phán: “Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu rỗi, còn ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,16). Nhưng khi thấy cỏ lùng được gieo lẫn vào lúa, Người lại bảo cứ để cả hai cùng mọc lên cho đến mùa gặt vào ngày thế mạt10. Không muốn là một vị Thiên Sai tham gia chính trường để thống trị bằng quyền lực11, Người thích tự xưng là Con Người, đến “để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Là người Tôi Trung hoàn hảo của Thiên Chúa12, Người “không đành bẻ gẫy cây lau bị giập, không nỡ vùi tắt tim đèn còn khói” (Mt 12,20). Người thừa nhận quyền bính và luật pháp dân sự khi bảo phải nộp thuế cho Cêsar, nhưng cũng khuyến cáo rõ ràng phải tôn trọng lề luật tối thượng của Thiên Chúa: “Của Cêsar hãy trả cho Cêsar, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Sau cùng, khi thực hiện công trình cứu chuộc trên Thánh giá để mang lại ơn cứu rỗi và tự do đích thực cho con người, Người đã hoàn tất mặc khải. Người đã làm chứng cho chân lý13, nhưng Người không muốn dùng sức mạnh để ép buộc những kẻ chống đối Người. Thật vậy, Nước Người không cần được bảo vệ bằng bạo lực14, nhưng được xây dựng khi chân lý được minh chứng và lắng nghe, được tăng triển nhờ chính tình yêu đã kéo mọi người lên với Chúa Kitô đang chịu treo trên Thập giá15.

Được dạy bảo bằng lời nói và mẫu gương của Chúa Kitô, các Tông đồ cũng đã đi theo con đường ấy. Từ thời Giáo Hội sơ khai, các môn đệ Đức Kitô đã không dùng hành động cưỡng bách và những thủ đoạn bất xứng với Tin Mừng, nhưng trên hết, các ngài dùng sức mạnh của Lời Chúa để dẫn đưa con người trở về tuyên xưng Đức Kitô là Chúa16. Các ngài đã mạnh dạn loan truyền cho mọi người biết ý định của Thiên Chúa Cứu Chuộc, “Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4); nhưng trong khi đó, các ngài vẫn tôn trọng những người yếu đuối, dù họ đang sống trong lầm lạc, và như thế, tỏ cho họ thấy “mỗi người chúng ta đều phải trả lẽ về chính mình trước mặt Thiên Chúa” (Rm 14,12)17, và phải luôn sống đúng theo lương tâm. Cũng như Chúa Kitô, các Tông đồ luôn chú tâm làm chứng cho chân lý của Thiên Chúa, đầy can đảm trước mặt dân chúng và nhà cầm quyền để “mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,31)18. Quả thật, các ngài xác tín rằng Tin Mừng thực sự là sức mạnh của Thiên Chúa để cứu rỗi tất cả những ai có lòng tin19. Vì thế, từ khước mọi “khí giới thuộc xác thịt”20, noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Kitô, các ngài rao giảng lời Chúa với tất cả lòng tin tưởng vào sức mạnh thần linh của lời có khả năng phá tan các quyền lực chống lại Thiên Chúa21, giúp mọi người trở về tin kính và vâng phục Chúa Kitô22. Như Thầy mình, các Tông đồ nhìn nhận chính quyền hợp pháp: “Thật vậy, không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa”, thánh Phaolô nói lời đó khi nhắc nhở: “Mọi người hãy tùng phục quyền trên… ai chống đối quyền bính tức là chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra” (Rm 13,1-2)23. Nhưng đồng thời các ngài cũng không sợ hãi khi phải phản đối những quyền bính đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29)24. Trải qua bao thế hệ và khắp nơi trên trái đất, biết bao vị tử đạo và tín hữu cũng đã đi theo con đường ấy.

12.

Như vậy, trung thành với chân lý Tin Mừng, Giáo Hội đi theo con đường của Chúa Kitô và các Tông đồ, khi nhìn nhận và bênh vực nguyên tắc tự do tôn giáo như một nguyên tắc phù hợp với phẩm giá con người và với mặc khải của Thiên Chúa. Qua dòng thời gian, Giáo Hội vẫn bảo toàn và truyền dạy giáo thuyết đã nhận lãnh nơi Thầy chí thánh và các Tông đồ. Mặc dù trong đời sống của Dân Thiên Chúa, đang trên đường lữ hành qua những thăng trầm của lịch sử nhân loại, đôi khi cũng đã có những phương cách hành động không mấy thích hợp, thậm chí còn trái với tinh thần Tin Mừng, nhưng giáo thuyết của Giáo Hội vẫn luôn khẳng định không được cưỡng bách trong việc đón nhận đức tin.

Như thế, nắm men Tin Mừng từ lâu đã tác động trong các tâm hồn và qua dòng thời gian, giúp con người nhận thức sâu xa hơn về phẩm giá của nhân vị, đồng thời cũng thêm xác quyết khi đòi hỏi xã hội dân sự không được cưỡng chế con người trong lãnh vực tôn giáo.

Tự do của Giáo Hội

13.

Trong số những điều gắn liền với thiện ích của Giáo Hội cũng như của xã hội trần thế, những điều dù ở đâu hay vào thời nào luôn phải được tôn trọng và bảo vệ khỏi mọi xâm phạm, thì chắc chắn điều quan trọng nhất là Giáo Hội phải được tự do hành động theo như đòi hỏi của sứ mạng đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người25. Thật vậy, đây là quyền tự do mang tính thánh thiêng, do người Con duy nhất của Thiên Chúa ban cho Giáo Hội đã được cứu chuộc bằng chính giá Máu của Người. Tự do này dành cho Giáo Hội cách đặc biệt đến nỗi nếu ai xâm phạm là đã hành động chống lại thánh ý Thiên Chúa. Quyền tự do của Giáo Hội phải là nguyên tắc căn bản cho mối tương quan giữa Giáo Hội và chính quyền cũng như toàn thể cơ cấu dân sự.

Trong xã hội loài người và đối với tất cả các công quyền, Giáo Hội đòi hỏi quyền tự do, với tư cách là một cơ chế có quyền bính thiêng liêng do Chúa Kitô thiết lập, được ủy thác nhiệm vụ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật26. Đồng thời, Giáo Hội cũng đòi hỏi quyền tự do, với tư cách là một cộng đồng nhân loại, có quyền sinh hoạt trong xã hội dân sự theo những giới luật của niềm tin Kitô giáo27.

Vì thế, nơi nào thể chế tự do tôn giáo được đề cao, không những được tuyên bố bằng lời nói hay được phê chuẩn qua các đạo luật, nhưng còn được thực tâm thi hành, thì ở đó, trên nguyên tắc cũng như trong thực tế, Giáo Hội mới có được những điều kiện vững chắc, khả dĩ bảo đảm cho sự độc lập cần thiết để chu toàn sứ mạng Chúa đã trao phó, đây cũng là điều giáo quyền vẫn luôn kiên quyết đòi hỏi phải được thực thi trong cộng đồng xã hội28. Trong khi đó, các Kitô hữu, cũng như những người khác, phải được hưởng quyền công dân, không bị ngăn cản sống theo lương tâm. Như thế, có sự tương hợp giữa tự do của Giáo Hội và tự do tôn giáo, phải được thừa nhận và được phê chuẩn về mặt pháp lý như một quyền lợi của mọi người và mọi cộng đồng.

Trách vụ của Giáo Hội

14.

Để tuân hành mệnh lệnh Chúa truyền: “Hãy dạy dỗ muôn dân” (Mt 28,19), Giáo Hội Công giáo phải luôn nỗ lực tối đa “để Lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh” (2 Ts 3,1).

Vì thế, Giáo Hội tha thiết xin con cái mình, trước hết “hãy van nài, cầu nguyện, khấn xin và tạ ơn cho tất cả mọi người... đó là điều tốt lành và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng Cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,1-4).

Trong việc đào luyện lương tâm, các Kitô hữu phải luôn chú trọng đến giáo lý thánh thiện và vững chắc của Giáo Hội29. Thật vậy, theo ý định của Chúa Kitô, Giáo Hội Công giáo được đặt làm thầy dạy chân lý, có nhiệm vụ loan báo và giảng dạy cách xác thực chân lý là chính Chúa Kitô, đồng thời có thẩm quyền công bố và xác nhận những nguyên tắc trong lãnh vực luân lý, phát xuất tự chính bản tính con người. Ngoài ra, khi đến với những người còn ở bên ngoài Giáo Hội, với thái độ khôn ngoan, các Kitô hữu, “trong Chúa Thánh Thần, trong đức ái không giả dối, trong lời chân lý” (2 Cr 6,6-7), phải cố gắng chiếu toả ánh sáng sự sống với trọn niềm xác tín30, với lòng can đảm của người tông đồ, đến độ sẵn sàng đổ máu.

Đối với Chúa Kitô, vị Tôn sư, người môn đệ có bổn phận phải ngày càng thấu hiểu sâu xa hơn về chân lý đã lãnh nhận nơi Người, phải trung thành loan truyền và can đảm bảo vệ chân lý ấy, nhưng không được sử dụng những phương cách trái với tinh thần Tin Mừng. Đồng thời, vì tình yêu Chúa Kitô thúc bách, phải cư xử thật ưu ái, khôn ngoan và nhẫn nại đối với những người còn đang sống trong lầm lạc hoặc chưa nhận biết đức tin31. Vì thế, vừa phải quan tâm đến những bổn phận đối với Chúa Kitô, Lời ban sự sống, Lời phải được loan truyền, vừa phải lưu ý đến những quyền lợi của con người và năng lực của ân sủng mà Thiên Chúa, nhờ Chúa Kitô, ban cho những kẻ được mời gọi để tự nguyện đón nhận và tuyên xưng đức tin.

Kết luận

15.

Con người ngày nay rõ ràng luôn muốn được tự do tuyên xưng niềm tin tôn giáo cách riêng tư cũng như công khai, hơn nữa, quyền tự do tôn giáo cũng đã được Hiến pháp của phần lớn các quốc gia công bố như một quyền dân sự và đã được các văn kiện quốc tế long trọng công nhận32.

Tuy nhiên, vẫn có những chế độ, trong đó, dù quyền tự do phụng tự đã được thừa nhận trong Hiến pháp, các cơ quan công quyền luôn tìm cách ngăn cản người dân không được tuyên xưng tôn giáo họ tin theo, và làm cho đời sống các cộng đồng tôn giáo trở nên vô cùng khó khăn và bấp bênh.

Vừa vui mừng trước những dấu chỉ tốt đẹp của thời đại ngày nay, vừa phải đau lòng nêu lên một số sự kiện đáng buồn, Thánh Công Đồng khuyến khích những người công giáo, và cũng xin tất cả mọi người hãy quan tâm nhận định kỹ lưỡng về sự cần thiết của quyền tự do tôn giáo, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại của gia đình nhân loại.

Thật vậy, điều có thể nhận thấy rõ ràng là các dân tộc ngày càng hợp nhất hơn, những con người thuộc nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác biệt ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ hơn, đồng thời mỗi cá nhân cũng có ý thức trách nhiệm sâu sắc hơn. Vì thế, để thiết lập và củng cố mối tương giao an hoà và thuận hảo giữa cộng đồng nhân loại, quyền tự do tôn giáo khắp nơi trên hoàn cầu cần phải được thừa nhận với sự bảo trợ hữu hiệu của luật pháp, đồng thời những bổn phận và quyền lợi tối thượng của con người trong việc sống đạo giữa xã hội cũng phải được tôn trọng.

Nguyện xin Thiên Chúa là Cha của mọi người, ban cho gia đình nhân loại, khi chú tâm thực thi nguyên tắc tự do tôn giáo trong cộng đồng xã hội, nhờ ân sủng Chúa Kitô và quyền năng Chúa Thánh Thần, được đạt tới tự do cao quý và vĩnh cửu “trong vinh quang của con cái Thiên Chúa” (Rm 8,21).

Tất cả và từng điều được ban bố trong Tuyên Ngôn này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 7 tháng 12 năm 1965
Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)

 


1 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 279; GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 265; PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh, 24.12.1944: AAS 37 (1945), tr. 14.

1 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 260-261; PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh, 24.12.1942, AAS 35 (1943), tr. 19; PIÔ XI, Thông điệp, Mit brennender Sorge, 14.3.1937: AAS 29 (1937), tr. 160; LÊÔ XIII, Thông điệp Libertas pr„stantissimum, 20.6.1888; Acta Leonis XIII, 8 (1888), tr. 237-238.

2 x. T. TÔMA, Summa Theologica, I-II, q. 91, a. I; q. 93, a. 1-2.

3 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 270; PHAOLÔ VI, Sứ điệp truyền thanh, 22.12.1964: AAS 57 (1965), tr. 181-182 ; x. T. TÔMA, Summa Theologica, I-II, q. 91, a. 4c.

4 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra, 15.5.1961: AAS 53 (1961), tr. 417; GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 273.

5 x. GIOAN XXIII, Thông điệp, Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 273-274; PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh, 1.6.1941: AAS 33 (1941), tr. 200.

6 x. LÊÔ XIII, Thông điệp Immortale Dei, 1.11.1885: AAS 18 (1885), tr. 161.

1 x. LACTANTIUS, Divinarum Institutionum, c. V, 19: CSEL 19, tr. 463-464,465: PL 6, 614 và 616 (ch. 20); T. AMBRÔSIÔ, Epistola ad Valentianum Imp. ep. 21: PL 16, 1005; T. AUGUSTINÔ, Contra litteras Petiliani, c. II, ch. 83: CSEL 52, tr. 112: PL 43, 315; x. C. 23, q. 5, c. 33 (xb. Friedberg, cột 939); T. AUGUSTINÔ, Epistola 23: PL 33, 98; T. AUGUSTINÔ, Epistola 34: PL 33, 132; T. AUGUSTINÔ, Epistola 35: PL 33, 135; T. GRÊGÔRIÔ CẢ, Epistola ad Virgilium et Theodorum Episcopos Massili„ Galliarum, Registrum Epistolarum, I, 45: MGH, Epistola 1, tr. 72: PL 77, 510-511 (quyển I, ep. 47); T. GRÊGÔRIÔ CẢ, Epistola ad Ioannem Episcopum Constantinopolitanum, Registrum Epistolarum, III, 52: MGH, Epistola 1, tr. 210: PL 77, 649 (quyển III, ep. 53); x. D. 45, c.1 (xb. Friedberg, cột 160); CĐ TOLET. IV, c.57; Mansi 10, 633; x. D. 45, c.5 (xb. Friedberg, cột 161-162); CLÊMENTÊ III: X, V, 6, 9 (xb. Friedberg, cột 774); INNÔCENTIÔ III, Epistola ad Arelatensem Archiepiscopum, X, III, 42, 3 (xb. Friedberg, cột 646).

2 x. Giáo Luật, 1351; PIÔ XII, Huấn từ cho các vị Giám chức cũng như các viên chức và tuỳ viên của Toà Thượng Thẩm Rôma 6.10.1946: AAS 38 (1946), tr. 394; PIÔ XII, Thông điệp Mystici Corporis, 29.6.1943: AAS 35 (1943), tr. 243.

3 x. Ep 1,5.

4 x. Ga 6,44.

5 x. Ga 13,13.

6 x. Mt 11,29.

7 x. Mt 11,28-30; Ga 6,67-68.

8 x. Mt 9,28-29; Mc 9,23-24; 6,5-6; PHAOLÔ VI, Thông điệp Ecclesiam Suam, 6.8.1964, AAS 56 (1964), tr. 642-643.

9 x. Mt 11,20-24; Rm 12,19-20; 2 Ts 1,8.

10 x. Mt 13,30 và 40-42.

11 x. Mt 4,8-10; Ga 6,15.

12 x. Is 42,1-4.

13 x. Ga 18,37.

14 x. Mt 26,51-53; Ga 18,36.

15 x. Ga 12,32.

16 x. 1 Cr 2,3-5; 1 Ts 2,3-5.

17 x. Rm 14,1-23; 1 Cr 8,9-13; 10,23-33.

18 x. Ep 6,19-20.

19 x. Rm 1,16.

20 x. 2 Cr 10,4; 1 Ts 5,8-9.

21 x. Ep 6,11-17.

22 x. 2 Cr 10,3-5.

23 x. 1 Pr 2,13-17.

24 x. Cv 4,19-20.

25 x. LÊÔ XIII, Thư Officio sanctissimo, 22.12.1887), AAS 20 (1887) tr. 269; LÊÔ XIII, Thư Ex Litteris, 7.4.1887: AAS 19 (1886), tr. 465.

26 x. Mc 16,15; Mt 28,18-20; PIÔ XII, Thông điệp Summi Pontificatus, 20.10.1939: AAS 31 (1939), tr. 445-446.

27 x. PIÔ XI, Thư Firmissimam Constantiam, 28.3.1937: AAS 29 (1937), tr. 196.

28 x. PIÔ XII, Huấn từ Ci riesce, 6.12.1953: AAS 45 (1953), tr. 802.

29 x. PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh, 23.3.1952: AAS 44 (1952), tr. 270-278.

30 x. Cv 4,29.

31 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 299-300.

32 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Pacem in Terris, 11.4.1963: AAS 55 (1963), tr. 295-296.

 

Tác giả: Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin
Nguồn: giaolyductin.net
Tag:

Các tin khác:


Các tin đã đưa ngày: