CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II - SẮC LỆNH VỀ HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

27 / 05/ 2015, 09:05:16

PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ

 

SẮC LỆNH
VỀ HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

APOSTOLICAM ACTUOSITATEM
Ngày 18 tháng 11 năm 1965

 

LỜI MỞ ĐẦU

1.

Thánh Công đồng, vì muốn đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tông đồ của đoàn Dân Thiên Chúa1, ưu ái hướng về các Kitô hữu giáo dân, những người vẫn giữ một vai trò riêng biệt và vô cùng cần thiết trong sứ mệnh của Giáo Hội như từng được nhắc đến trong các văn kiện khác2. Thật vậy, vì khởi phát từ chính ơn gọi Kitô hữu, nên việc tông đồ giáo dân không bao giờ có thể thiếu vắng trong Giáo Hội. Rất nhiều nơi trong Thánh Kinh cũng cho thấy hoạt động này đã được thi hành cách tự phát và đạt nhiều kết quả trong những ngày đầu của Giáo Hội (x. Cv 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16; Pl 4,3).

Thời đại chúng ta đòi hỏi người giáo dân cũng phải nhiệt thành không kém, thậm chí hoàn cảnh hiện tại còn thúc bách họ phải thực thi hoạt động tông đồ ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn. Dân số ngày càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật ngày càng tiến bộ, tương quan giữa con người ngày càng chặt chẽ, những điều đó đã mở rộng đến vô tận môi trường hoạt động tông đồ, trong đó một khoảng không gian to lớn được dành riêng cho giáo dân, không những thế, bao nhiêu vấn đề mới lại nảy sinh đòi hỏi họ phải đặc biệt lưu tâm và tìm hiểu. Hoạt động tông đồ còn trở nên khẩn thiết hơn nữa khi tính độc lập của nhiều lãnh vực trong đời sống con người được khẳng định - đây cũng là điều bình thường - đôi khi kéo theo thái độ không còn quan tâm tới vấn đề đạo đức và tôn giáo, gây nhiều nguy hại cho đời sống Kitô hữu. Cũng cần nói thêm rằng, tại những miền thiếu linh mục hay khi các ngài không được tự do thi hành tác vụ, Giáo Hội khó có thể hiện diện và tác động nếu không có hoạt động của giáo dân.

Dấu chỉ của nhu cầu đa dạng và khẩn thiết này chính là hoạt động tỏ tường của Chúa Thánh Thần đang làm cho người giáo dân hôm nay càng ngày càng ý thức rõ rệt hơn về trách nhiệm của chính mình và đang thúc bách họ phục vụ Đức Kitô và Giáo Hội ở bất kỳ nơi đâu3.

Trong Sắc Lệnh này, Công Đồng muốn làm sáng tỏ bản chất, đặc điểm và tính đa dạng của hoạt động tông đồ giáo dân, nêu lên những nguyên tắc căn bản và đưa ra các hướng dẫn mục vụ để thi hành việc tông đồ ấy hiệu quả hơn. Mọi điều trong Sắc Lệnh này phải được coi như những tiêu chuẩn cho việc xét lại các khoản giáo luật liên quan đến hoạt động tông đồ giáo dân.

 

CHƯƠNG I

ƠN GỌI LÀM TÔNG ĐỒ GIÁO DÂN

2.

Giáo Hội được thiết lập nhằm mở rộng vương quốc Chúa Kitô trên khắp địa cầu, để tôn vinh Thiên Chúa Cha và làm cho mọi người được tham dự vào công trình cứu độ1, để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự được quy hướng về Đức Kitô. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể hướng về mục đích này được gọi là việc tông đồ, được thực hiện bởi tất cả các chi thể của Giáo Hội với nhiều cách thức khác nhau. Quả thật, ơn gọi làm Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ. Trong một cơ thể sống động, không chi thể nào hoàn toàn thụ động, nhưng cùng tham dự vào đời sống và hoạt động của toàn thân, cũng thế, trong Nhiệm Thể Chúa Kitô là Giáo Hội, “mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình làm cho toàn thân được lớn mạnh” (x. Ep 4,16). Hơn nữa, các chi thể của thân thể ấy được nối kết và liên hệ với nhau (x. Ep 4,16) đến độ chi thể nào không hoạt động theo chức năng của mình cho sự lớn mạnh của toàn thân, phải bị xem là vô dụng đối với Giáo Hội cũng như với chính mình.

Trong Giáo Hội có nhiều thừa tác vụ khác nhau, nhưng đều trực thuộc một sứ mệnh duy nhất. Đức Kitô đã trao phó cho các Tông đồ và những đấng kế vị các ngài nhiệm vụ giảng dạy, thánh hoá và cai quản nhân danh Người và trong quyền năng của Người. Phần các giáo dân, vì được tham dự thực sự vào chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, nên cũng góp phần thực hiện sứ mệnh của toàn thể dân Chúa trong Giáo Hội và trên trần gian2. Giáo dân thực thi các hoạt động tông đồ để rao giảng Tin Mừng và thánh hoá con người, để làm cho tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện hoá trật tự trần thế, sao cho các hoạt động của họ trong trần thế thực sự trở nên chứng từ về Đức Kitô và mang lại ơn cứu rỗi cho con người. Tính cách đặc thù của bậc giáo dân là sống giữa thế gian và giữa các công việc trần thế, họ được Thiên Chúa mời gọi để nhiệt thành thực thi việc tông đồ với tinh thần Kitô hữu như chất men thấm vào thế giới.

3.

Bởi được liên kết với Chúa Kitô là Đầu, người giáo dân có quyền và có bổn phận làm tông đồ. Khi được tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy, được nên mạnh mẽ nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức, họ được chính Chúa giao phó trách vụ tông đồ. Họ được thánh hiến để thực thi chức tư tế vương giả và làm nên đoàn dân thánh (x. 1 Pr 2,2-10), để hiến dâng lễ phẩm thiêng liêng qua mọi công việc, và để làm chứng cho Chúa Kitô khắp nơi trên trái đất. Các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, luôn chuyển thông và nuôi dưỡng nơi họ đức ái như là linh hồn của tất cả mọi hoạt động tông đồ3.

Việc tông đồ được thực thi trong niềm tin, cậy, mến do Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào tâm hồn mọi thành viên của Giáo Hội. Hơn nữa, giới luật bác ái, điều răn lớn nhất Chúa dạy, luôn thúc bách tất cả các tín hữu hoạt động để tôn vinh Thiên Chúa, làm cho nước Ngài hiển trị và đem lại cho mọi người sự sống đời đời là nhận biết Thiên Chúa duy nhất chân thật và Đấng Ngài đã sai đến là Chúa Giêsu Kitô (x. Ga 17,3).

Vì thế, tất cả các Kitô hữu được trao cho nhiệm vụ cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận sứ điệp cứu độ.

Để việc tông đồ được thực thi hữu hiệu, Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá dân Chúa qua thừa tác vụ và các bí tích, thông ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt (x. 1 Cr 12,7), “phân chia cho mỗi người tuỳ theo ý Ngài muốn” (1 Cr 12,11) để “mỗi người tuỳ theo ơn đã lãnh nhận mà phục vụ kẻ khác” và trở nên “như những người khéo quản lý các ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1 Pr 4,10), để xây dựng toàn thân trong đức ái (x. Ep 4,16). Từ việc đón nhận những đoàn sủng này, dù là những đoàn sủng thông thường nhất, mỗi tín hữu đều có quyền và bổn phận sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như giữa trần gian, để mưu ích cho mọi người và xây dựng Giáo Hội trong tự do của Chúa Thánh Thần, Đấng “muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8), đồng thời trong sự hiệp thông với anh em của mình trong Chúa Kitô, nhất là với các chủ chăn, những người sẽ thẩm định về bản chất đích thực và về cách sử dụng chính đáng các đoàn sủng này, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để nghiệm xét mọi sự và điều nào tốt thì giữ lấy (x. 1 Ts 5,12; 19,21)4.

4.

Vì Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đến, là nguồn mạch và căn nguyên của mọi hoạt động tông đồ trong Giáo Hội, nên kết quả của việc tông đồ giáo dân rõ ràng tuỳ thuộc vào sự kết hợp sống động của chính họ với Chúa Kitô, Đấng đã phán: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sinh được nhiều hoa trái, vì không có Thầy các con chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Đời sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô trong Giáo Hội được duy trì nhờ những trợ giúp thiêng liêng dành cho tất cả các tín hữu, nhất là nhờ việc tham dự tích cực vào Phụng vụ thánh5, những phương thế này cần phải được sử dụng hữu hiệu sao cho, trong khi vẫn chu toàn tốt đẹp các nhiệm vụ trần thế trong hoàn cảnh sống thường ngày, người giáo dân không để cuộc sống bị tách rời, trái lại luôn tăng triển trong sự kết hợp với Chúa Kitô qua việc chu toàn bổn phận theo thánh ý Thiên Chúa. Đó chính là cách thế giúp người giáo dân thăng tiến trong nếp sống thánh thiện với niềm vui và lòng hăng say nhiệt thành, luôn nỗ lực để thận trọng và kiên trì vượt qua những khó khăn không thể tránh được trong cuộc đời6. Việc chăm sóc gia đình hay các công việc trần thế không thể bị đặt ra bên lề cuộc sống thiêng liêng, như lời Thánh Tông Đồ nhắn nhủ: “Tất cả mọi việc anh em làm, dù trong lời nói hay trong hành động, hãy làm nhân danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người để cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Cl 3,17).

Một nếp sống như thế đòi hỏi phải liên lỉ thực hành các nhân đức tin, cậy, mến.

Chỉ có ánh sáng đức tin và việc suy niệm Lời Chúa mới có thể giúp chúng ta nhận ra được Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, “nơi Ngài chúng ta sống, hoạt động và hiện hữu” (Cv 17,28), đồng thời cũng giúp chúng ta tìm biết thánh ý Chúa trong mọi biến cố, nhận ra Chúa Kitô nơi mọi người dù là thân quen hay xa lạ, cũng như biết thẩm định đúng đắn về ý nghĩa đích thực và giá trị của các thực tại trần thế, trong bản chất của chúng và trong mối tương quan với cứu cánh của con người.

Những ai có được niềm tin như thế, khi tưởng niệm mầu nhiệm Thánh giá và Phục sinh của Chúa, sẽ sống trong niềm hy vọng trông chờ ngày con cái Thiên Chúa được tỏ hiện.

Trong cuộc lữ hành trần thế, được náu ẩn trong Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô, được giải thoát khỏi ách nô lệ của cải, trong khi tìm kiếm sản nghiệp tồn tại muôn đời, họ sẽ hoàn toàn quảng đại hiến thân để mở rộng nước Chúa và đem tinh thần Kitô hữu xây dựng và hoàn thiện hoá các thực tại trần thế. Giữa những khó khăn của cuộc sống, họ tìm thấy lòng can đảm trong niềm hy vọng, vì nghĩ rằng: “Những đau khổ hiện thời chẳng thấm vào đâu so với vinh quang sắp tới sẽ được mặc khải cho chúng ta” (Rm 8,18).

Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa thúc đẩy họ thực thi điều lành cho tất cả mọi người, nhất là cho những người anh em trong đức tin (x. Gl 6,10), từ bỏ “mọi thứ gian ác, xảo trá, giả hình, ghen tương cũng như mọi lời nói xấu gièm pha” (1 Pr 2,1), và như vậy họ lôi kéo mọi người đến với Chúa Kitô. Hơn nữa tình yêu mà Chúa “tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Người đã ban cho chúng ta” (Rm 5,5) làm cho người giáo dân có khả năng biểu lộ cách cụ thể tinh thần các mối Phúc Thật trong chính đời sống của mình. Đi theo Chúa Giêsu khó nghèo, họ không tuyệt vọng khi thiếu thốn, cũng không kiêu căng khi dư dật; noi gương Chúa Kitô khiêm hạ, họ không khao khát vinh quang hão huyền (x. Gl 5,26) nhưng chuyên chăm làm vui lòng Thiên Chúa hơn làm đẹp lòng người ta. Họ luôn sẵn sàng từ bỏ mọi sự vì Chúa Kitô (x. Lc 14,26), và chịu bách hại vì sống công chính (x. Mt 5,10), luôn nhớ lời Chúa nói: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Cư xử với nhau trong tình thân ái của người Kitô hữu, họ sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi nhu cầu của cuộc sống.

Nền linh đạo giáo dân phải mang những nét riêng biệt tuỳ theo từng bậc sống như hôn nhân và gia đình, độc thân hay góa bụa, tuỳ theo tình trạng sức khỏe, tuỳ theo từng lãnh vực hoạt động nghề nghiệp và xã hội. Như vậy, mỗi người phải không ngừng phát triển những đức tính và tài năng thích hợp với từng hoàn cảnh sống, và biết tận dụng những ân huệ Chúa Thánh Thần ban riêng cho mỗi người.

Ngoài ra, những giáo dân, theo ơn gọi của mình, tham gia các hiệp đoàn hay tu hội được Giáo Hội nhìn nhận, phải nỗ lực trung thành sống theo đường hướng riêng biệt trong linh đạo của từng tu hội.

Họ cũng nên đánh giá cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp, quý trọng cảm thức về giá trị gia đình và về vai trò công dân, cũng như những đức tính liên quan tới đời sống xã hội và không thể thiếu trong đời sống Kitô hữu đích thực, như liêm khiết, công bình, trung thực, nhân hậu, quả cảm.

Gương mẫu hoàn hảo của đời sống thiêng liêng và đời sống tông đồ chính là Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria, Nữ Vương các Tông đồ, xưa Mẹ đã sống cuộc đời trần thế giống như mọi người, cũng phải vất vả lo lắng cho gia đình, nhưng vẫn luôn kết hợp mật thiết với Con mình và cộng tác vào công trình của Đấng Cứu Thế cách vô cùng độc đáo; giờ đây trên thiên quốc, “với tấm lòng hiền mẫu, Mẹ chăm sóc những đứa em của Con Mẹ, đang gặp nhiều nguy hiểm và thử thách trên đường lữ hành, cho đến khi tất cả về tới quê hương hạnh phúc”7. Mọi người hãy thành tâm tôn sùng Mẹ và phó thác cuộc sống cũng như mọi hoạt động tông đồ vào tay Mẹ.

 

CHƯƠNG II

MỤC TIÊU PHẢI ĐẠT TỚI

5.

Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, dù chủ yếu liên quan đến việc cứu rỗi con người, nhưng cũng bao hàm việc canh tân toàn thể trật tự trần thế. Do đó, sứ mệnh của Giáo Hội không chỉ là đem Tin Mừng và ân sủng của Chúa Kitô cho nhân loại, nhưng còn đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện hoá các thực tại trần thế. Vì thế, khi thi hành sứ mệnh này của Giáo Hội, người giáo dân hoạt động tông đồ ngay trong Giáo Hội cũng như giữa đời, trong lãnh vực thiêng liêng cũng như trong lãnh vực trần thế. Hai lãnh vực tuy khác biệt, nhưng lại nối kết với nhau trong ý định duy nhất của Thiên Chúa, thế nên Thiên Chúa muốn thu nhận toàn thể thế giới trong Chúa Kitô để làm nên một tạo vật mới, khởi sự ngay ở trần gian và hoàn tất trong ngày sau hết. Trong cả hai lãnh vực, người giáo dân, vừa là tín hữu vừa là công dân, phải luôn để mình được hướng dẫn bởi cùng một lương tâm Kitô hữu.

6.

Sứ mệnh của Giáo Hội liên quan đến ơn cứu độ con người sẽ nhận được nhờ lòng tin vào Chúa Kitô và nhờ ân sủng của Người. Như vậy, hoạt động tông đồ của Giáo Hội và của tất cả các tín hữu trước tiên nhằm loan báo sứ điệp của Chúa Kitô bằng lời nói và việc làm, đồng thời chuyển thông ân sủng của Người cho trần gian. Công việc này được thực hiện chủ yếu qua thừa tác vụ rao giảng lời Chúa và trao ban các bí tích, tuy được giao phó đặc biệt cho hàng giáo sĩ, nhưng trong đó, cả giáo dân cũng giữ một vai trò rất quan trọng để trở thành “những người cộng tác trong việc truyền bá chân lý” (3 Ga 8). Đây là lãnh vực đặc biệt trong đó hoạt động tông đồ giáo dân và tác vụ mục tử bổ túc cho nhau.

Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ để Phúc Âm hoá và thánh hoá mọi người. Chính chứng tá của đời sống Kitô hữu và những việc lành được thực hiện với tinh thần siêu nhiên, có sức lôi kéo mọi người đến với đức tin và gặp gỡ Thiên Chúa; thật vậy, chính Chúa đã bảo: “Sự sáng các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy việc lành các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).

Tuy nhiên việc tông đồ không chỉ giới hạn trong việc làm chứng bằng đời sống; người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói, hoặc cho những người chưa tin để đưa họ đến với đức tin, hoặc cho những người đã tin để hướng dẫn, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn; quả thật, “tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14), hãy để lời Thánh Tông Đồ luôn vang vọng trong tâm trí tất cả chúng ta: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16)1.

Thời đại chúng ta có nhiều vấn đề mới được đặt ra, cũng như có nhiều sai lầm trầm trọng đang được phổ biến, có thể làm sụp đổ cả nền móng tôn giáo, trật tự luân lý và chính xã hội nhân loại, nên Thánh Công Đồng tha thiết khuyên nhủ giáo dân, mỗi người tuỳ theo khả năng và kiến thức giáo lý của mình, hãy theo đúng tinh thần của Giáo Hội để tích cực góp phần trong việc triển khai, bảo vệ và áp dụng xác đáng các nguyên tắc Kitô giáo vào những vấn đề của thời đại ngày nay.

7.

Chắc chắn ý định của Thiên Chúa về thế giới là muốn con người đồng tâm kiến tạo và không ngừng hoàn thiện hoá các thực tại trần thế.

Trật tự trần thế bao gồm nhiều thực tại, chẳng hạn những thiện ích của cuộc sống và gia đình, văn hoá, kinh tế, nghề nghiệp và chuyên ngành, các thể chế cộng đồng chính trị, mối bang giao quốc tế và những thực tại tương tự khác, cộng với những biến chuyển và tiến bộ trong mọi lãnh vực, tất cả những thực tại đó không chỉ là phương tiện để con người đạt đến cùng đích của mình, nhưng còn có giá trị riêng do chính Thiên Chúa đặt định, hoặc xét ngay trong chính bản chất của chúng, hoặc xét như thành phần của toàn thể trật tự trần thế: “Thiên Chúa nhìn muôn vật Ngài đã tạo thành và thấy tất cả đều rất tốt đẹp” (St 1,31). Phẩm tính tốt lành tự nhiên ấy lại được tiếp nhận thêm một giá trị đặc biệt dựa trên mối liên hệ giữa thiên nhiên và con người, vì vạn vật đã được tạo dựng để phục vụ con người. Sau cùng, Thiên Chúa đã muốn quy tập tất cả mọi thực tại, tự nhiên cũng như siêu nhiên, nên một trong Chúa Giêsu Kitô “để trong mọi sự, Người đứng hàng đầu” (Cl 1,18). Tuy nhiên, sự thiên định này không hề làm cho trật tự trần thế mất đi tính tự lập, cứu cánh riêng cũng như các định luật và phương tiện riêng, hay không còn cần thiết cho lộc phúc của con người, trái lại chính thiên ý đó giúp hoàn thiện năng lực và giá trị đồng thời nâng trật tự trần thế lên tầm mức xứng với ơn gọi toàn diện của con người nơi trần gian.

Qua dòng lịch sử, việc sử dụng các thực tại trần thế đã mắc nhiều sai sót nghiêm trọng, do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người thường hiểu sai về Thiên Chúa chân thật, về bản tính con người và các nguyên tắc luân lý: từ đó, phong hoá và những định chế của loài người đã bị hư hoại, và chính con người nhiều khi cũng bị xúc phạm. Ngày nay cũng thế, một số người vì quá tin tưởng vào tiến bộ khoa học và kỹ thuật, nên dường như muốn tôn thờ các thực tại trần thế, đến nỗi trở thành nô lệ thay vì làm chủ vạn vật.

Toàn thể Giáo Hội đang nỗ lực để giúp con người có thể xây dựng tốt đẹp và quy hướng tất cả các thực tại trần thế về Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô. Các chủ chăn có nhiệm vụ trình bày rõ ràng các nguyên tắc về cứu cánh của công trình tạo dựng cũng như về cách thức sử dụng vạn vật, đồng thời cung ứng những hỗ trợ trong lãnh vực luân lý và tu đức cho công cuộc canh tân các thực tại trần thế trong Chúa Kitô.

Giáo dân phải đảm nhận việc canh tân trật tự trần thế như là phận vụ riêng của mình, trong đó, họ được đức bác ái Kitô giáo thúc đẩy để trực tiếp và kiên quyết hành động dưới ánh sáng Tin Mừng và theo tinh thần Giáo Hội; với tư cách là công dân, họ phải cộng tác với các công dân khác tuỳ theo khả năng chuyên môn và trách vụ đang đảm nhận; ở mọi nơi và trong mọi sự, họ phải lo tìm kiếm sự công chính của nước Thiên Chúa. Phải hành động để trật tự trần thế, trong khi vẫn tuân theo các định luật riêng của mình, được canh tân sao cho phù hợp với các nguyên tắc cao quý của cuộc sống Kitô hữu, và thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau của từng địa phương, thời đại và từng dân tộc. Việc tông đồ nổi bật hơn cả chính là hoạt động xã hội của các Kitô hữu, và Thánh Công Đồng ước ao hoạt động đó lan đến mọi lãnh vực trần thế kể cả lãnh vực văn hóa2.

8.

Đã hẳn tất cả các hoạt động tông đồ đều bắt nguồn và tiếp nhận sức mạnh từ đức ái, tuy nhiên, có một số công việc tự bản chất lại rất thích hợp để biểu hiện cách sống động tình yêu thương bác ái; chính Chúa Kitô cũng đã xem đó như là dấu chỉ biểu trưng cho sứ mệnh cứu độ của Người (x. Mt 11,4-5).

Điều răn quan trọng nhất trong lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn và yêu thương tha nhân như chính mình (x. Mt 22,37-40). Chúa Kitô đã nhận giới luật yêu thương tha nhân như điều răn riêng của Người, và đưa vào đó một ý nghĩa mới phong phú hơn nhiều, khi chính Người tự đồng hoá với các anh em của Người để trở thành đối tượng của những hành vi bác ái: “mỗi lần các ngươi làm những việc đó cho một trong những người anh em hèn mọn của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Thật vậy, khi nhận lấy bản tính loài người, Chúa Kitô đã kết hợp toàn thể nhân loại thành một gia đình duy nhất bằng mối dây liên đới siêu nhiên, và đã dùng đức bác ái làm dấu chỉ của người môn đệ, khi nói: “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Trong thời sơ khai, khi đặt bữa ăn thân tình “agapè” gắn liền với bàn tiệc Thánh Thể, Giáo Hội chứng tỏ mình đang hoàn toàn hợp nhất quanh Chúa Kitô nhờ mối dây liên kết yêu thương, điều đó cho thấy, dù ở thời đại nào, Giáo Hội cũng muốn được nhận diện nhờ dấu chỉ tình yêu này, và trong khi vẫn vui mừng vì những đề xuất của người khác, Giáo Hội muốn tự đảm nhận những hoạt động bác ái như là nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng của mình. Vì thế, Giáo Hội đặc biệt đề cao lòng thương xót đối với người nghèo đói, bệnh tật, cũng như các công việc được gọi là từ thiện và tương trợ để xoa dịu mọi nỗi thống khổ của nhân loại3.

Thời nay, nhờ những phương tiện giao thông dễ dàng và nhanh chóng, sự ngăn cách giữa con người một cách nào đó như đã được xoá bỏ, và mọi người trên khắp hoàn cầu gần như trở nên thành viên của cùng một gia đình, cho nên những hoạt động và những tổ chức bác ái càng trở nên khẩn thiết hơn và phải mang chiều kích toàn cầu. Ngày nay, hoạt động bác ái có thể và phải đáp ứng cho tất cả mọi người và mọi nhu cầu. Ở đâu có người còn thiếu thức ăn nước uống, chưa có đủ áo quần, nhà cửa, thuốc men, không có việc làm, thiếu học vấn, thiếu cả những phương tiện cần thiết để sống cho xứng với nhân phẩm, ở đâu có người đang bị hành hạ vì nghịch cảnh hay bệnh tật, đang đau khổ vì lưu đày hay tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải tìm gặp, ân cần săn sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp thích đáng. Những cá nhân và những quốc gia sung túc giàu mạnh phải đi tiên phong trong việc thực thi nghĩa vụ bác ái này4.

Để việc thực hành bác ái không thể bị phê phán chỉ trích và trở thành bác ái đích thực, cần phải thấy nơi tha nhân hình ảnh Thiên Chúa theo đó họ đã được dựng nên, và nhận ra Chúa Kitô, Đấng mà những gì được trao tặng cho người nghèo thật ra là được dâng lên cho chính Người. Phải hết sức tế nhị tôn trọng tự do và nhân phẩm của người được trợ giúp. Đừng làm hoen ố ý hướng ngay lành vì mưu cầu tư lợi hay vì một tham vọng thống trị nào5; phải đáp ứng những đòi hỏi công bình trước, đừng để những quà tặng bác ái thật ra chỉ là món nợ phải đền trả theo lẽ công bình; phải có kế hoạch giúp đỡ để tạo điều kiện cho những người được trợ giúp dần dần thoát khỏi tình trạng lệ thuộc người khác và có được khả năng sinh hoạt tự túc.

Vì thế người giáo dân phải mến chuộng và tận dụng khả năng để hỗ trợ các công tác từ thiện và những chương trình cứu trợ xã hội của tư nhân cũng như của quốc gia, kể cả quốc tế, nhờ đó có thể trợ giúp hữu hiệu cho các cá nhân và những dân tộc đang gặp cảnh khốn cùng, qua sự cộng tác với tất cả những người thiện chí6.

 

CHƯƠNG III

CÁC LÃNH VỰC HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ

9.

Người giáo dân thực thi hoạt động tông đồ đa dạng của mình ngay trong lòng Giáo Hội cũng như giữa môi trường trần thế. Nhiều lãnh vực hoạt động tông đồ mở ra trong cả hai môi trường; trong số đó, chúng tôi muốn nhắc tới những lãnh vực chính yếu hơn cả, đó là các cộng đoàn Giáo Hội, gia đình, giới trẻ, môi trường xã hội, các hệ thống tổ chức quốc gia và quốc tế. Ngày nay, giới phụ nữ đang góp phần ngày càng tích cực hơn vào toàn bộ đời sống xã hội, vì thế phải ghi nhận tầm quan trọng của việc họ sẽ tham gia rộng rãi hơn vào các lãnh vực hoạt động tông đồ khác nhau của Giáo Hội.

10.

Bởi được thông dự vào chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Chúa Kitô, người giáo dân cũng giữ một vai trò tích cực trong đời sống và hoạt động của Giáo Hội. Nơi các cộng đoàn Giáo Hội, hoạt động của giáo dân thật cần thiết, đến nỗi nếu không có hoạt động đó, chính hoạt động tông đồ của các chủ chăn thường không thể đạt được kết quả trọn vẹn. Theo gương các tín hữu nam cũng như nữ đã trợ giúp thánh Phaolô trong việc rao giảng Tin Mừng (x. Cv 18,18-26; Rm 16,3), những giáo dân có tinh thần tông đồ đích thực cũng đang tiếp trợ những gì anh chị em của mình đang thiếu, và nâng đỡ tinh thần các chủ chăn cũng như nhiều tín hữu khác (x. 1 Cr 16,17-18). Được nuôi dưỡng nhờ tham dự tích cực vào đời sống phụng vụ của cộng đoàn, họ nhiệt thành góp phần vào các công tác tông đồ; họ dẫn đưa những người đang xa lạc trở về với Giáo Hội; cộng tác đắc lực vào việc loan truyền Lời Chúa, đặc biệt qua việc dạy giáo lý; họ cống hiến tài năng để giúp cho việc coi sóc các linh hồn và cả việc quản trị tài sản của Giáo Hội được hữu hiệu hơn.

Giáo xứ là một mô hình tông đồ cộng đồng đáng lưu ý, vì ở đó mọi người thuộc đủ mọi thành phần đều được liên kết nên một và được tiếp nhận trong tinh thần đại đồng của Giáo Hội1. Giáo dân nên thường xuyên cộng tác chặt chẽ với các linh mục trong các hoạt động tại giáo xứ2; trình bày với cộng đoàn Giáo Hội những khó khăn của cộng đoàn hay của xã hội, cũng như những vấn đề liên quan tới phần rỗi mọi người để cùng nhau góp ý, nghiên cứu và giải quyết; đồng thời cũng phải tuỳ khả năng hỗ trợ cho các hoạt động tông đồ và truyền giáo của toàn thể gia đình Giáo Hội.

Giáo dân phải luôn nuôi dưỡng cảm thức về giáo phận, trong đó giáo xứ có thể ví như một tế bào. Họ hãy luôn mau mắn đáp lại những lời mời gọi của vị Chủ chăn, và đem hết khả năng để tham gia vào những kế hoạch chung của giáo phận. Hơn nữa, để đáp ứng những nhu cầu nơi thành thị cũng như ở thôn quê3, họ đừng đóng khung sự cộng tác của mình trong giới hạn giáo xứ hay giáo phận, nhưng hãy cố gắng mở rộng tới phạm vi liên xứ, liên giáo phận, quốc gia hay quốc tế, hơn nữa, lượng di dân ngày càng nhiều, những mối tương giao gia tăng, và việc truyền thông dễ dàng, không còn cho phép một thành phần xã hội nào được sống đóng kín cho riêng mình. Vì thế, người giáo dân phải quan tâm đến những nhu cầu của đoàn Dân Thiên Chúa đang tản mác trên khắp thế giới. Đặc biệt họ phải xem công cuộc truyền giáo là việc của chính mình để đóng góp vào đó cả về vật chất lẫn nhân sự. Vì quả thật, phận vụ và vinh dự của người Kitô hữu là dâng lại cho Thiên Chúa một phần của cải họ đã nhận được từ nơi Ngài.

11.

Đấng Tạo Hoá đã thiết lập cộng đồng hôn nhân như là nguồn gốc và nền tảng cho xã hội loài người, và đã dùng ơn thánh nâng hôn nhân lên hàng bí tích cao cả trong Chúa Kitô và trong Giáo Hội (x. Ep 5,32), vì thế, hoạt động tông đồ của các đôi vợ chồng và các gia đình có tầm quan trọng đặc biệt đối với Giáo Hội cũng như với xã hội dân sự.

Vợ chồng Kitô hữu là những người cộng tác với ơn thánh và là chứng nhân đức tin đối với nhau, cũng như đối với con cái và các thành viên khác trong gia đình. Chính họ là những người đầu tiên phải thông truyền và giáo dục đức tin cho con cái; phải dùng lời nói và gương sáng huấn luyện con cái sống đời Kitô hữu và làm việc tông đồ, khôn ngoan giúp đỡ con cái trong việc lựa chọn ơn kêu gọi, và dành mọi chăm sóc để nuôi dưỡng ơn thiên triệu được phát hiện nơi con cái.

Một bổn phận vẫn thuộc về định chế hôn nhân, nhưng riêng ngày nay lại trở thành điều quan trọng nhất trong việc tông đồ của đôi vợ chồng, đó là phải biểu lộ và minh chứng bằng cả cuộc sống tính cách bất khả phân ly và thánh thiện của dây hôn phối; phải kiên quyết khẳng định quyền lợi và nhiệm vụ dành cho bậc cha mẹ và những người bảo trợ trong việc giáo dục con cái theo Kitô giáo; phải bảo vệ phẩm giá và quyền tự trị hợp pháp của gia đình. Vì thế, chính đôi vợ chồng phải hợp tác hành động cùng với toàn thể tín hữu, cũng như với những người thiện chí, để những quyền trên đây luôn được pháp luật bảo vệ; để những nhu cầu của gia đình liên quan tới các vấn đề cư trú, giáo dục trẻ em, điều kiện lao động, an ninh xã hội và thuế khoá phải được chính phủ quan tâm khi điều hành cộng đồng xã hội; và để đời sống chung của các gia đình phải được các quy chế di dân bảo vệ toàn vẹn4.

Chính gia đình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó nếu biết sống đạo đức và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, để nên như một đền thờ của Hội Thánh tại gia, nếu toàn thể gia đình cùng tham dự các nghi lễ phụng vụ của Giáo Hội, và sau cùng, nếu gia đình tỏ ra hiếu khách và phát huy đức công bình cũng như những việc thiện khác để giúp những người anh em đang túng thiếu. Trong hoạt động tông đồ đa dạng của gia đình, cần phải kể đến những việc như nhận trẻ bị bỏ rơi làm con nuôi, ân cần tiếp đón khách lạ, cộng tác với học đường, khuyên bảo và nâng đỡ thanh thiếu niên, giúp những người đã đính hôn chuẩn bị chu đáo cho đời sống hôn nhân, giúp dạy giáo lý, hỗ trợ các đôi vợ chồng và các gia đình gặp khó khăn về vật chất hay tinh thần, không chỉ cung cấp cho người cao tuổi những gì cần thiết, nhưng còn chia sẻ cách công bình những kết quả của tiến bộ kinh tế.

Ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhất là trên những vùng đất vừa mới tiếp nhận hạt giống Tin Mừng, hoặc trong những nơi Giáo Hội mới được thành lập hay đang gặp những trở ngại lớn lao, các gia đình Kitô hữu luôn là những chứng từ quý giá nhất cho Chúa Kitô đối với thế gian, qua toàn bộ nếp sống gắn liền với Tin Mừng và nêu cao gương mẫu của hôn nhân Kitô giáo5.

Để dễ dàng đạt tới những mục đích tông đồ này, các gia đình nên quy tụ thành các hội đoàn6.

12.

Trong xã hội ngày nay, giới trẻ đang thể hiện một sức mạnh vô cùng quan trọng7. Các điều kiện sinh sống, những tập quán tinh thần và cả những tương quan của người trẻ với gia đình đã thay đổi rất nhiều. Thường họ hội nhập rất nhanh vào những môi trường mới về xã hội và kinh tế. Tuy nhiên, trong khi tầm quan trọng trong vai trò xã hội cũng như chính trị của họ ngày càng tăng, thì dường như họ vẫn chưa đủ năng lực tương xứng với những trách vụ mới này.

Việc đảm nhận thêm nhiều trọng trách trong xã hội đòi hỏi họ cần phải gia tăng hoạt động tông đồ, và thật ra chính bản tính tự nhiên của họ cũng đã sẵn sàng cho công việc đó. Nhờ trưởng thành trong ý thức về nhân vị, với sức sống nồng nhiệt và năng lực tràn trề, họ nhận lãnh trách nhiệm và khao khát muốn góp phần của riêng mình vào đời sống xã hội và văn hoá. Nếu được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô, và được thể hiện với thái độ tuân phục và yêu mến các vị chủ chăn của Giáo Hội, nhiệt tình này có thể mang lại những thành quả phong phú dồi dào. Người trẻ phải trở nên những tông đồ đầu tiên và trực tiếp của giới trẻ, trong từng môi trường xã hội họ đang sống, hoạt động tông đồ cần được thực thi giữa giới trẻ bởi chính những người trẻ8.

Giới trưởng thành cần quan tâm chấp nhận đối thoại thân tình với giới trẻ, điều đó giúp cả hai có thể vượt qua khoảng ngăn cách về tuổi tác, để hiểu biết lẫn nhau và chuyển thông cho nhau sự phong phú đặc thù của mỗi giới. Người lớn hãy thúc đẩy giới trẻ hoạt động tông đồ, trước tiên bằng chính gương sáng, cũng như bằng ý kiến khôn ngoan và giúp đỡ thiết thực khi có cơ hội. Người trẻ cũng phải nuôi dưỡng lòng yêu kính và tín nhiệm đối với người lớn, và tuy dù tự nhiên vẫn thích hướng về những gì mới mẻ, họ cũng cần biết tôn trọng những truyền thống tốt đẹp luôn đáng quý chuộng.

Phần các thiếu nhi cũng có cách thức hoạt động tông đồ riêng. Tuỳ khả năng, các em thực sự chính là những chứng nhân sống động của Chúa Kitô giữa các bạn bè.

13.

Các hoạt động tông đồ trong môi trường xã hội tập trung vào nỗ lực làm cho tinh thần Kitô giáo thấm nhuần đến tận tâm thức, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đồng nơi mọi người đang sinh hoạt, đây chính là phận vụ và công tác mà không ai khác có thể chu toàn thay thế cho người giáo dân được. Đây là nơi người giáo dân có thể làm tông đồ cho người có cùng hoàn cảnh sinh sống. Ở đó, họ dùng chứng tá của đời sống làm cho chứng từ của lời nói trở nên trọn vẹn9. Cũng ở đó, họ dễ dàng giúp đỡ anh chị em trong môi trường lao động hay nghề nghiệp, trong khung cảnh học hành, cư trú, giải trí, cũng như trong sinh hoạt cộng đồng tại địa phương.

Người giáo dân thực thi sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội nơi trần gian trước tiên bằng đời sống phù hợp với đức tin để trở thành ánh sáng thế gian; bằng nếp sống lương thiện trong công ăn việc làm để khơi lên nơi mọi người lòng yêu mến điều chân thật, thiện hảo, và cuối cùng đưa họ đến với Chúa Kitô và Giáo Hội; bằng tình bác ái huynh đệ sẵn sàng chia sẻ với anh chị em trong cùng hoàn cảnh sống, trong lao động, đau khổ cũng như trong những khát vọng, để âm thầm chuẩn bị cho ơn cứu rỗi hoạt động nơi tâm hồn mọi người; bằng một ý thức tròn đầy về vai trò của mình trong việc xây dựng xã hội, từ đó nỗ lực chu toàn các bổn phận nơi gia đình, ngoài xã hội, trong nghề nghiệp với lòng quảng đại của người Kitô hữu. Với phương thức đó, phong cách hành động của họ dần dần thấm nhập vào môi trường nơi họ sinh sống và làm việc.

Hoạt động tông đồ phải hướng tới toàn thể những người đang cư ngụ trong địa bàn và không từ chối bất cứ việc gì có thể mang lại lợi ích thiêng liêng hay vật chất cho mọi người. Và người tông đồ đích thực không chỉ dùng việc làm, nhưng còn chú tâm dùng cả lời nói để rao giảng Chúa Kitô cho mọi người chung quanh. Quả thật, nhiều người chỉ có thể nghe Tin Mừng và nhận biết Chúa Kitô qua những người giáo dân sống gần bên họ.

14.

Môi trường hoạt động tông đồ trải rộng bao la trên bình diện quốc gia và quốc tế, trong đó, hơn ai hết, giáo dân là những người chuyển thông nền đạo lý Kitô giáo. Với lòng yêu nước và trung thành chu toàn các nghĩa vụ công dân, người công giáo cảm thấy mình có bổn phận cổ vũ cho công ích đích thực, và đóng góp ý kiến mạnh mẽ để quyền bính dân sự phải được thực thi đúng theo công lý, và luật pháp phải phù hợp với luật luân lý và những đòi hỏi của công ích. Những người công giáo có khả năng làm chính trị, có đức tin và kiến thức giáo lý vững chắc, đừng từ chối tham gia việc nước, vì khi thi hành nhiệm vụ cách tốt đẹp, họ có thể chăm lo cho công ích và đồng thời mở đường cho Tin Mừng.

Người công giáo phải sẵn sàng cộng tác với tất cả những người thiện chí để phát huy bất cứ những gì là chân thật, chính trực, thánh thiện và đáng quý chuộng (x. Pl 4,8). Hãy gặp gỡ họ với thái độ khôn ngoan và tế nhị để đi đến đối thoại, hãy tìm cách kiện toàn những định chế xã hội và quốc gia theo tinh thần Tin Mừng.

Trong các dấu chỉ của thời đại hôm nay, hãy đặc biệt lưu tâm đến cảm thức ngày càng gia tăng và không thể tránh né về tính liên đới giữa các dân tộc, và phận vụ của hoạt động tông đồ giáo dân là phải nỗ lực phát huy và biến cảm thức đó trở thành khát vọng chân thành và thiết thực về tình huynh đệ. Ngoài ra, giáo dân phải ý thức về những vấn đề và giải pháp mang tính lý thuyết hay thực hành đang được đề ra trong lãnh vực quốc tế, nhất là về những vấn đề liên quan tới các dân tộc đang trên đà phát triển10.

Tất cả những ai đang làm việc hay đang trợ giúp cho các quốc gia, hãy nhớ rằng mối bang giao giữa các dân tộc phải là cuộc trao đổi huynh đệ đích thực, trong đó, cả hai bên cùng cho và cùng nhận. Còn những người xuất ngoại để kinh doanh hay để giải trí phải nhớ rằng dù ở đâu họ cũng vẫn là sứ giả lưu động của Chúa Kitô và phải sống đúng với danh hiệu đó.

 

CHƯƠNG IV

CÁC PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ

15.

Giáo dân có thể thực thi việc tông đồ hoặc với tư cách cá nhân, hoặc tham gia trong các cộng đồng hay hội đoàn khác nhau.

16.

Việc tông đồ, tuôn tràn dồi dào từ mạch sống đích thực Kitô giáo (x. Ga 4,14), một hoạt động mà bản thân mỗi người phải thực hiện, chính là cơ sở và là điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân, kể cả trong dạng thức tập thể, và không gì có thể thay thế được.

Tất cả các giáo dân, dù thuộc bất cứ thành phần nào, kể cả khi không có cơ hội hay khả năng cộng tác trong các hội đoàn, đều được mời gọi và hơn nữa có bổn phận làm việc tông đồ cá nhân, một hoạt động dù ở đâu cũng luôn mang lại nhiều kết quả, hơn nữa, trong một số hoàn cảnh, chỉ có hoạt động tông đồ này mới thích hợp và có thể thực hiện được.

Có nhiều hình thức tông đồ qua đó người giáo dân tham gia xây dựng Giáo Hội, đồng thời thánh hoá và làm cho thế giới sống động trong Chúa Kitô.

Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân, một dấu chỉ rất thích hợp trong thời đại ngày nay để bày tỏ Chúa Kitô đang sống động trong các tín hữu của Người, đó là chứng tá của một cuộc sống tràn đầy tin, cậy, mến nơi những người giáo dân. Khi thực thi việc tông đồ bằng lời nói, một cách hoạt động vô cùng cần thiết trong một số trường hợp, người giáo dân rao giảng Chúa Kitô, giải thích, phổ biến và trung thành tuyên xưng giáo lý của Người tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng của mỗi người.

Hơn nữa, khi cộng tác vào những hoạt động liên quan tới việc xây dựng và quản trị trật tự trần thế với tư cách là công dân trong thế giới, người công giáo phải tìm kiếm dưới ánh sáng đức tin những định hướng cao đẹp hơn cho nếp sống gia đình, nghề nghiệp, văn hoá và xã hội, và khi có dịp, sẽ trình bày những hướng sống đó cho nhiều người khác, với ý thức mình đang cộng tác với Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá, đồng thời cũng đang chúc tụng tôn vinh Ngài.

Sau cùng, người giáo dân hãy luôn sống theo đức ái, và dùng hết khả năng để thể hiện tình yêu thương bằng những việc làm cụ thể.

Mọi người phải nhớ rằng, chính nhờ những hành vi phụng tự và lời cầu nguyện, nhờ thái độ sẵn lòng chấp nhận hy sinh cũng như lao nhọc và khổ cực trong cuộc sống, là những điều làm họ nên giống Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn (x. 2 Cr 4,10; Cl 1,24), họ mới có thể ảnh hưởng tới mọi người và đem ơn cứu độ cho toàn thế giới.

17.

Việc tông đồ cá nhân này trở nên thật cần thiết và cấp bách trong những miền mà tự do của Giáo Hội gặp phải nhiều cản trở. Trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn như thế, giáo dân phải thay thế các linh mục bao nhiêu có thể, liều mất tự do và đôi khi mất cả tính mạng, để dạy giáo lý công giáo cho những người chung quanh, hướng dẫn họ sống đạo và khuyến khích họ năng lãnh nhận các bí tích và đặc biệt tôn sùng Thánh Thể1. Trong khi thành tâm cảm tạ Thiên Chúa đã không ngừng cho xuất hiện ngay cả trong thời đại chúng ta, những người giáo dân can đảm phi thường giữa các cơn bách hại, Thánh Công Đồng cũng luôn biết ơn và yêu thương họ bằng cả tấm lòng hiền phụ.

Việc tông đồ cá nhân có môi trường hoạt động đặc biệt trong những miền có số người công giáo quá ít và sống tản mác. Ở những nơi đó, số giáo dân đang hoạt động tông đồ riêng lẻ, hoặc vì những lý do nói trên, hoặc vì những lý do đặc biệt phát xuất từ sinh hoạt nghề nghiệp, rất nên tập họp thành những nhóm nhỏ, không cần đến hình thức tổ chức hay hệ thống chặt chẽ, miễn sao người khác thấy được dấu chỉ của cộng đoàn Giáo Hội như bằng chứng đích thực của tình yêu thương. Như thế, trong khi nâng đỡ nhau trên bình diện thiêng liêng nhờ tình bằng hữu và việc trao đổi kinh nghiệm, họ được mạnh sức để vượt thắng những khó khăn của cuộc sống và của những hoạt động lẻ loi, đồng thời cũng để việc tông đồ đạt được kết quả phong phú hơn.

18.

Các Kitô hữu được mời gọi hoạt động tông đồ với tư cách cá nhân trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống; tuy nhiên họ nên nhớ rằng, con người tự bản chất đã có xã hội tính, và Thiên Chúa đã muốn quy tụ những người tin vào Chúa Kitô để lập thành dân Thiên Chúa (x. 1 Pr 2,5-10) và liên kết họ nên một thân thể (x. 1 Cr 12,12). Vì thế, hoạt động tông đồ tập thể đáp ứng được những đòi hỏi của các tín hữu xét dưới khía cạnh con người cũng như dưới khía cạnh Kitô hữu, đồng thời cũng biểu lộ được dấu chỉ hiệp thông và hợp nhất của Giáo Hội trong Chúa Kitô, Đấng đã nói: “Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy tụ họp lại, Thầy sẽ ở giữa họ” (Mt 18,20).

Vì thế, các Kitô hữu phải hợp nhất với nhau để cùng làm việc tông đồ2. Họ phải là tông đồ trong cộng đoàn gia đình cũng như trong giáo xứ và giáo phận, những tập thể biểu lộ rõ rệt tính cách cộng đồng của hoạt động tông đồ, đồng thời họ cũng là tông đồ trong những đoàn thể hoạt động tự do mà họ đã tự ý gia nhập.

Phương cách hoạt động tập thể rất quan trọng đối với công tác tông đồ, vì trong các cộng đoàn Giáo Hội cũng như trong nhiều môi trường khác, việc tông đồ thường đòi hỏi phải được thực hiện theo một chương trình hành động chung. Những hội đoàn được thành lập để hỗ trợ hoạt động tông đồ tập thể, phải nâng đỡ và đào tạo các hội viên cho sứ vụ tông đồ, phối hợp và điều hành các công tác tông đồ, nhờ đó hy vọng kết quả sẽ phong phú hơn là để từng người hoạt động riêng rẽ.

Quả thật, với những điều kiện hiện nay, trong môi trường sinh hoạt giáo dân, hoạt động tông đồ nhất thiết phải được triển khai dưới hình thức tập thể và có tổ chức; thật vậy, phải liên kết chặt chẽ các nỗ lực mới có thể đạt đến tất cả những mục tiêu và bảo vệ hữu hiệu những thiện ích của hoạt động tông đồ ngày nay3. Do đó, đặc biệt cần phải tiếp cận được tâm thức tập thể và hoàn cảnh xã hội của những đối tượng hoạt động tông đồ, vì nếu không, họ thường sẽ không đủ sức chống lại áp lực của dư luận quần chúng hay của các định chế xã hội.

19.

Các hội đoàn tông đồ mang rất nhiều sắc thái khác nhau4; có những hội muốn phục vụ cho mục tiêu tông đồ nói chung của Giáo Hội; có những đoàn thể lại đặc biệt hướng đến việc Phúc Âm hoá và thánh hoá con người; có những nhóm lại tìm cách đưa tinh thần Kitô giáo thấm nhập vào trật tự trần thế; có những hội đoàn đặc biệt muốn làm chứng cho Chúa Kitô qua các công cuộc bác ái từ thiện.

Cần phải quan tâm cách riêng đến những hội đoàn muốn phát huy và làm thăng tiến sự liên kết chặt chẽ giữa đời sống thực tế và đức tin của các hội viên. Hội đoàn tự thân không phải là cứu cánh, nhưng là phương tiện giúp Giáo Hội chu toàn sứ mệnh đối với trần gian. Giá trị tông đồ của các hội đoàn tuỳ thuộc vào mức độ phù hợp với các mục tiêu của Giáo Hội, vào chứng từ mang tính Kitô hữu cũng như tinh thần Tin Mừng của từng thành viên và của cả hội đoàn.

Trước sự phát triển của các định chế, cũng như trước đà tiến hoá của xã hội hiện đại, sứ mệnh phổ quát của Giáo Hội đòi hỏi các đề xướng tông đồ của người công giáo phải được tổ chức ngày càng hoàn chỉnh hơn theo dạng thức đoàn thể cấp quốc tế. Các Tổ Chức Công Giáo Quốc Tế sẽ hoạt động hiệu quả hơn nếu được liên kết chặt chẽ hơn nữa với tổ chức cũng như thành viên của các đoàn thể trực thuộc.

Với điều kiện không được tách rời khỏi giáo quyền5, người giáo dân có quyền thành lập6 và điều hành các hội đoàn, hoặc ghi danh vào các hội đoàn đang hoạt động. Tuy nhiên, cần phải tránh tình trạng phân tán lực lượng do việc lập thêm những hội đoàn và tổ chức mới khi không đủ lý do, hoặc cố giữ lại những đoàn thể không còn hiệu quả, hoặc quá bảo thủ với những phương pháp đã lỗi thời; và cũng phải cân nhắc thận trọng khi muốn du nhập vào một địa phương những hình thức hội đoàn được thành lập tại một quốc gia khác7.

20.

Từ vài thập niên gần đây, trong nhiều quốc gia, giáo dân càng ngày càng dấn thân vào công tác tông đồ, và quy tụ lại dưới nhiều hình thức hoạt động, cũng như trong các hội đoàn đã và đang theo đuổi những mục đích thuần túy tông đồ, trong khi vẫn liên kết chặt chẽ với hàng Giáo phẩm. Trong số đó, cũng như trong các tổ chức tương tự đã có từ lâu, đặc biệt phải nhắc đến những đoàn thể, với những đường hướng hoạt động khác nhau, đã đem lại nhiều kết quả phong phú cho Vương quốc Chúa Kitô, và xứng đáng được các Đức Giáo Hoàng và một số đông các Giám mục tín nhiệm, cổ vũ và đặt cho danh hiệu Công Giáo Tiến Hành, thường được mô tả như một hình thức cộng tác của giáo dân vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm8.

Với danh hiệu Công Giáo Tiến Hành hay một danh hiệu nào khác, các hình thức hoạt động hiện đang thực thi trọng trách tông đồ, phải hội đủ những yếu tố cơ bản sau đây:

a) Mục đích trực tiếp của các tổ chức này phải là mục đích tông đồ của Giáo Hội, nghĩa là loan báo Tin Mừng, thánh hoá con người và đào tạo lương tâm Kitô hữu đích thực để có thể đem tinh thần Tin Mừng thấm nhập vào các cộng đồng và các môi trường khác nhau.

b) Trong khi cộng tác với hàng Giáo phẩm theo cách thức riêng của mình, người giáo dân đóng góp kinh nghiệm và đảm nhận trách nhiệm trong việc điều hành các hội đoàn, tìm ra những điều kiện khả thi cho các hoạt động mục vụ của Giáo Hội, soạn thảo và thực hiện các chương trình hành động.

c) Người giáo dân hoạt động liên kết với nhau như các cơ năng trong cùng một thân thể, sao cho tính cách cộng đoàn của Giáo Hội được thể hiện rõ rệt hơn, và việc tông đồ được hữu hiệu hơn.

d) Người giáo dân, hoặc do tự nguyện dấn thân, hoặc được mời hoạt động và cộng tác trực tiếp vào việc tông đồ trong Giáo Hội, phải luôn làm việc dưới sự điều hành của hàng Giáo phẩm, những vị có thể công nhận sự cộng tác này bằng một ủy nhiệm thư chính thức.

Những tổ chức được giáo quyền xác nhận hội đủ những yếu tố vừa kể, đều được coi là đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, dù có thể vẫn mang những hình thức và danh hiệu khác thích hợp với từng địa phương và mỗi dân tộc.

Thánh Công Đồng ân cần giới thiệu những định chế này, vì chắc chắn đây là những đoàn thể đáp ứng được những đòi hỏi của hoạt động tông đồ trong Giáo Hội tại nhiều quốc gia: Công Đồng kêu mời các linh mục hoặc giáo dân đang tham gia các tổ chức trên, hãy thực thi ngày càng tốt đẹp những yếu tố vừa nêu, và luôn cộng tác trong tình huynh đệ với các đoàn thể hoạt động tông đồ khác trong Giáo Hội.

21.

Tất cả các đoàn thể tông đồ đều phải được quý trọng; tuy nhiên, có những đoàn thể mà hàng Giáo phẩm, tuỳ theo nhu cầu của từng địa phương và thời điểm, sẽ khích lệ, đề nghị và nhanh chóng quyết định thành lập: các linh mục, tu sĩ và giáo dân phải quan tâm nhiều hơn và tìm cách phát huy những đoàn thể ấy. Trong số đó, ngày nay đặc biệt phải kể đến những đoàn thể hay hiệp hội công giáo có tính cách quốc tế.

22.

Giáo Hội rất tôn trọng và đặc biệt đề cao những giáo dân, độc thân hoặc đã có gia đình, đang dấn thân và đem khả năng chuyên môn của mình tham gia hoạt động và phục vụ suốt đời hoặc một thời gian trong các tổ chức đoàn thể. Giáo Hội cũng rất vui mừng vì thấy càng ngày càng tăng số giáo dân phục vụ trong các hiệp hội hoặc các tổ chức hoạt động tông đồ ở lãnh vực quốc gia cũng như quốc tế, và nhất là trong các cộng đoàn công giáo tại các xứ truyền giáo và nơi những Giáo Hội mới thành lập.

Các Chủ chăn trong Giáo Hội hãy vui vẻ tiếp nhận và cám ơn những giáo dân ấy, cần giúp họ có được phẩm chất đầy đủ về công bình, liêm chính và bác ái, nhất là nên chu cấp cho họ và gia đình có được một cuộc sống xứng đáng, đồng thời phải huấn luyện đầy đủ cũng như trợ giúp và khích lệ họ trong đời sống thiêng liêng.

 

CHƯƠNG V

QUY CHẾ HOẠT ĐỘNG

23.

Hoạt động tông đồ của giáo dân, dù cá nhân hay tập thể, phải được đặt vào đúng chỗ trong công cuộc tông đồ của toàn thể Giáo Hội; hơn nữa, việc liên kết với những người đã được Chúa Thánh Thần đặt lên cai quản Giáo Hội Chúa cũng là một yếu tố thiết yếu của hoạt động tông đồ Kitô giáo (x. Cv 20,28). Trong khi đó, việc cộng tác giữa các tổ chức tông đồ khác nhau cũng rất cần thiết và phải được hàng Giáo phẩm điều hành cách hài hoà.

Vì muốn cổ vũ tinh thần hợp nhất để tình bác ái huynh đệ được toả sáng trong mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội, để đạt được các mục đích chung cũng như để tránh những cạnh tranh nguy hại, cần phải biết tôn trọng lẫn nhau và phối hợp thích đáng các đoàn thể tông đồ trong Giáo Hội, dĩ nhiên vẫn luôn bảo toàn đặc tính riêng của từng tổ chức1.

Đây là điều cần thực hiện, nhất là khi có một công tác đặc biệt nào đó trong Giáo Hội, đòi hỏi phải có sự phối hợp và cộng tác tông đồ giữa hàng giáo sĩ dòng và triều, giữa tu sĩ và giáo dân.

24.

Hàng Giáo phẩm có trách nhiệm hỗ trợ cho hoạt động tông đồ của giáo dân, đề ra các nguyên tắc và phương thế trợ giúp thiêng liêng, điều phối các công tác tông đồ để mang lại nhiều thiện ích cho toàn thể Giáo Hội, đồng thời cũng quan tâm giúp mọi người tuân hành giáo thuyết và những chỉ thị của Giáo Hội.

Mối liên hệ giữa hoạt động tông đồ giáo dân và hàng Giáo phẩm có thể mang nhiều dạng thức khác nhau tuỳ theo hình thể và mục tiêu của mỗi hoạt động tông đồ.

Quả thật, đã có nhiều hoạt động tông đồ trong Giáo Hội do chính giáo dân khởi xướng và điều hành theo những nhận định thật khôn ngoan. Trong nhiều trường hợp, chính các hoạt động đó đã giúp Giáo Hội có thể chu toàn tốt đẹp sứ mệnh tông đồ của mình, vì thế các đề xướng của giáo dân vẫn thường được hàng Giáo phẩm hoan nghênh và khích lệ2. Tuy nhiên, không một khởi xướng hoạt động nào được lấy danh nghĩa công giáo nếu không có sự ưng thuận của giáo quyền hợp pháp.

Có một số tổ chức tông đồ giáo dân, bằng cách này hay cách khác, đã được giáo quyền công khai chấp nhận.

Ngoài ra, vì thiện ích chung của Giáo Hội, giáo quyền có thể lựa chọn và cổ vũ cách đặc biệt, cũng như đảm nhận trách nhiệm đặc biệt đối với một số hiệp đoàn và tổ chức tông đồ có tôn chỉ trực tiếp hướng đến mục đích thiêng liêng. Như thế, khi phải thích ứng hoạt động tông đồ trong nhiều môi trường khác nhau, hàng Giáo phẩm có thể liên kết một hình thức tông đồ giáo dân nào đó cách chặt chẽ hơn vào phận vụ tông đồ của mình, tuy nhiên phải bảo toàn nguyên vẹn bản chất và sự khác biệt giữa hai phận vụ, và như thế, giáo dân vẫn được quyền có những đề xướng riêng trong khi hoạt động. Trong nhiều văn kiện của Giáo Hội, hành động liên kết này của hàng Giáo phẩm được gọi là ủy thác nhiệm vụ.

Sau cùng, hàng Giáo phẩm có thể trao cho giáo dân một số phận vụ vốn gắn liền với nhiệm vụ của chủ chăn, chẳng hạn việc dạy giáo lý, cử hành phụng vụ, hay chăm sóc các linh hồn. Vì được ủy nhiệm, nên khi thi hành nhiệm vụ, người giáo dân phải hoàn toàn tuân phục sự điều khiển của giáo quyền thượng cấp.

Trong những vấn đề liên quan đến các hoạt động và định chế thuộc lãnh vực trần thế, hàng Giáo phẩm có nhiệm vụ phải giảng dạy và giải thích đích xác những nguyên tắc luân lý phải tuân giữ trong lãnh vực này. Sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng và bàn hỏi với các chuyên viên, hàng Giáo phẩm có quyền thẩm định những hoạt động hay định chế nào phù hợp với các nguyên tắc luân lý và phán quyết những gì phải làm để bảo vệ và làm tăng triển những phúc lộc siêu nhiên.

25.

Các Giám mục, các cha xứ, các linh mục dòng triều phải nhớ rằng, hoạt động tông đồ là quyền lợi và bổn phận chung của tất cả các tín hữu, không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân, và chính giáo dân cũng có trách nhiệm phải góp phần trong việc xây dựng Giáo Hội3. Vì thế, các ngài phải cộng tác với giáo dân trong tình huynh đệ để cùng hoạt động trong Giáo Hội và cho Giáo Hội, phải dành sự quan tâm đặc biệt cho những giáo dân đang tham gia công tác tông đồ4.

Phải chọn những linh mục có khả năng và được đào tạo thích hợp để hỗ trợ các tổ chức tông đồ đặc biệt của giáo dân5. Trong hoạt động mục vụ, các ngài đại diện cho hàng Giáo phẩm khi thi hành tác vụ đã được ủy thác; qua thái độ gắn bó trung thành với tinh thần và giáo lý của Giáo Hội, các ngài làm thăng tiến mối liên hệ tốt đẹp giữa giáo dân và Hàng Giáo phẩm; các ngài phải chú tâm nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và tinh thần tông đồ nơi các đoàn thể công giáo đã được trao phó; các ngài phải luôn hiện diện trong các hoạt động tông đồ với sự góp ý khôn ngoan, đồng thời cũng cổ vũ những sáng kiến của các đoàn thể. Qua việc tiếp xúc thường xuyên với giáo dân, các ngài phải quan tâm tìm kiếm những dạng thức tổ chức có thể đem lại nhiều kết quả hơn cho hoạt động tông đồ; phải phát huy tinh thần hiệp nhất ngay trong đoàn thể mình phụ trách, cũng như giữa đoàn thể này với các đoàn thể bạn.

Sau cùng, các tu sĩ nam nữ phải quý trọng các hoạt động tông đồ của giáo dân; theo tinh thần và nội quy của mỗi hội dòng, họ nên sẵn sàng dấn thân góp phần phát triển các hoạt động tông đồ giáo dân6; đồng thời cũng cần tận tình nâng đỡ, hỗ trợ và giúp các linh mục chu toàn phận vụ.

26.

Trong mỗi giáo phận, phải quan tâm tối đa đến việc thành lập các ban cố vấn gồm các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, cùng tích cực cộng tác để hỗ trợ các hoạt động tông đồ của Giáo Hội, trong lãnh vực Phúc Âm hoá và thánh hoá mọi người, hoặc trong lãnh vực bác ái, xã hội hay các hoạt động khác. Các cố vấn này có thể giúp điều phối hoạt động của các hội đoàn và các chương trình tông đồ giáo dân, trong khi vẫn tôn trọng bản chất và quyền tự quản của các thành phần có liên quan7.

Nếu có thể, cũng nên thiết lập những ban cố vấn như thế ở cấp giáo xứ, liên giáo xứ, liên giáo phận và ngay cả ở cấp quốc gia hay quốc tế8.

Hơn nữa, phải thiết lập bên cạnh Toà Thánh một văn phòng đặc trách hỗ trợ và phát huy hoạt động tông đồ giáo dân, được coi như cơ quan trung ương có đủ phương tiện thích hợp để phổ biến thông tin về các chương trình hoạt động tông đồ, đồng thời nghiên cứu các vấn đề thời đại trong lãnh vực này, để tư vấn cho hàng Giáo phẩm và cho chính những giáo dân đang dấn thân trong hoạt động tông đồ. Các phong trào và các tổ chức tông đồ giáo dân hiện có trên khắp thế giới phải được coi là thành viên trực thuộc văn phòng này, trong đó nên có cả giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân cùng cộng tác.

27.

Vì có chung một gia sản Tin Mừng, và do đó có cùng một bổn phận là làm chứng cho Chúa Kitô, người công giáo nên và thường phải cộng tác với các Kitô hữu khác, hoặc cá nhân với cá nhân, hoặc giữa các cộng đồng Giáo Hội, trong các hoạt động cũng như trong các hội đoàn trên bình diện quốc gia hay quốc tế9.

Vì cùng thông chia những giá trị nhân bản, nên các Kitô hữu đang hoạt động cho sứ vụ tông đồ cũng thường xuyên phải cộng tác với những người, tuy không cùng niềm tin Kitô giáo, nhưng vẫn nhìn nhận những giá trị nhân bản chung.

Nhờ sự cộng tác năng động và cẩn trọng này10, vốn có tầm quan trọng đặc biệt trong các hoạt động thuộc lãnh vực trần thế, người giáo dân làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc thế giới và làm chứng cho tình đoàn kết đại đồng của cả gia đình nhân loại.

 

CHƯƠNG VI

ĐÀO TẠO TÔNG ĐỒ

28.

Hoạt động tông đồ chỉ có thể đạt được hiệu quả trọn vẹn khi được chuẩn bị bằng một chương trình đào tạo đa dạng và toàn diện, đây là việc phải thực hiện, không những vì người giáo dân cần được thăng tiến liên lỉ trong đời sống thiêng liêng cũng như về kiến thức giáo lý, nhưng còn vì hoạt động tông đồ luôn cần được thích nghi với những khác biệt về hoàn cảnh thực tế, về nhân sự cũng như về những nhiệm vụ phải thi hành. Việc đào tạo này phải dựa trên các nền tảng đã được Thánh Công Đồng đề xướng và công bố trong nhiều văn kiện khác1. Ngoài chương trình đào tạo chung dành cho mọi tín hữu, có thể nói đa số các đoàn thể tông đồ, do có những đoàn viên và hoàn cảnh khác biệt, đều cần phải có thêm lớp đào tạo chuyên biệt.

29.

Vì giáo dân tham gia sứ mệnh của Giáo Hội theo một cách thức riêng biệt, nên việc đào tạo tông đồ phải có những hướng dẫn đặc biệt thích ứng với tính cách đặc thù của người giáo dân là sống giữa đời, cũng như với định hướng đời sống thiêng liêng phù hợp.

Việc đào tạo tông đồ cũng bao hàm việc đào tạo nhân bản toàn diện, phù hợp với nhân cách và hoàn cảnh của mỗi người. Thật vậy, với một kiến thức sâu sắc về thế giới đương đại, giáo dân phải là một phần tử luôn thích ứng với xã hội và nền văn hoá địa phương.

Nhưng trước tiên, người giáo dân phải học biết chu toàn sứ mệnh của Chúa Kitô và của Giáo Hội bằng cách sống niềm tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Đấng làm cho Dân Chúa được sống và thôi thúc mọi người yêu mến Thiên Chúa là Cha, cũng như yêu thương thế giới và nhân loại trong Ngài. Việc đào tạo này chính là nền tảng và là điều kiện để các hoạt động tông đồ sinh hoa kết trái.

Bên cạnh chương trình đào tạo tu đức, cần phải cung cấp một kiến thức vững chắc về giáo lý, về thần học, luân lý, triết học tuỳ theo tuổi tác, hoàn cảnh và khả năng của từng người. Cũng không thể coi thường việc giáo dục văn hoá tổng quát cũng như đào tạo về kỹ thuật và thực hành.

Để có được mối tương giao tốt đẹp với tha nhân, cần phải phát huy các giá trị nhân bản đích thực, nhất là cách sống chung trong tình huynh đệ, biết cộng tác và đối thoại với mọi người.

Việc đào tạo tông đồ không thể chỉ là những hướng dẫn về lý thuyết, vì thế ngay từ đầu, người giáo dân phải từng bước thận trọng học cách nhận thức, suy xét và hành động trong mọi tình huống theo ánh sáng của đức tin, tự đào tạo và hoàn thiện bản thân nhờ cùng hoạt động với những người chung quanh, và như thế họ sẽ tích cực dấn thân phục vụ Giáo Hội2. Chương trình đào tạo phải luôn được tu chỉnh, vì bản thân mỗi người ngày càng trưởng thành và các vấn đề vẫn không ngừng chuyển biến, đòi hỏi một kiến thức ngày càng sâu rộng, cũng như những hành động luôn phải thích nghi. Trong khi tìm cách đáp ứng những yêu cầu trong tiến trình đào tạo, phải luôn lưu tâm tới tính chất thống nhất và toàn vẹn của nhân cách, để duy trì và gia tăng sự hài hoà cũng như thế quân bình trong con người.

Nhờ đó người giáo dân sẽ hoà nhập cách tích cực và sâu xa vào chính thực tại trần thế, cũng như đảm đương cách hữu hiệu vai trò của mình trong việc điều hành trật tự trần thế; đồng thời, là phần tử sống động và chứng nhân của Giáo Hội, họ làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động ngay giữa lòng trần thế3.

30.

Việc đào tạo tông đồ phải được khởi sự ngay trong chương trình giáo dục thiếu nhi. Nhưng phải đặc biệt lưu tâm dạy cho các thanh thiếu niên biết làm việc tông đồ và thấm nhuần tinh thần tông đồ. Việc đào tạo này phải được tiếp tục trong suốt cả đời tuỳ theo đòi hỏi của những phận vụ mới đảm nhận. Như vậy, rõ ràng những ai có trách nhiệm trong việc giáo dục Kitô giáo đều phải lưu tâm đến phận vụ đào tạo tông đồ.

Bậc cha mẹ phải quan tâm dạy cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ, trong chính khung cảnh gia đình, biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mọi người, và dần dần, nhất là bằng gương sáng, sẽ dạy cho chúng biết quan tâm đến các nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của những người lân cận. Như vậy, toàn thể các thành viên và chính đời sống chung của gia đình phải nên như môi trường thực tập đầu tiên cho việc tông đồ.

Hơn nữa, trẻ em cần phải được giáo dục để biết vượt ra khỏi phạm vi gia đình, mở rộng tâm hồn hướng đến các cộng đồng khác như Giáo Hội và xã hội. Các em phải được tham gia vào đời sống cộng đồng của giáo xứ địa phương, để ý thức được mình là một thành phần sống động và hoạt động của toàn thể Dân Thiên Chúa. Các linh mục hãy luôn lưu tâm đến ý hướng đào tạo tông đồ này trong những giờ dạy giáo lý, trong các bài giảng, trong việc coi sóc linh hồn cũng như trong tất cả các hoạt động mục vụ khác.

Các trường học, trường cao đẳng, các cơ sở giáo dục công giáo cũng có trách nhiệm cổ vũ nơi giới trẻ tinh thần công giáo và hoạt động tông đồ. Nếu việc đào tạo này không thực hiện được, hoặc vì thanh thiếu niên không học ở các trường đó, hoặc vì một lý do nào khác, thì bậc cha mẹ và các vị chủ chăn cũng như các đoàn thể lại càng phải nỗ lực chu toàn phận vụ giáo dục tông đồ. Do ơn gọi và trách vụ, các thầy dạy và các nhà giáo dục đang thực thi một hình thức cao quý của hoạt động tông đồ giáo dân, vì thế, họ phải có kiến thức giáo lý cần thiết và thông thạo khoa sư phạm để có thể thực thi hữu hiệu phận vụ giáo dục.

Các đoàn thể hay hiệp đoàn giáo dân, dù được thành lập để hoạt động tông đồ hay theo định hướng siêu nhiên nào khác, phải luôn quan tâm hỗ trợ cho việc đào tạo tông đồ theo những cách thế phù hợp với tôn chỉ và phương thức hoạt động riêng của mình4. Những tổ chức này thường vẫn có sẵn những phương tiện thích hợp cho việc đào tạo tông đồ. Thật vậy, khi gia nhập, các đoàn viên đã được đào tạo về giáo lý, về đời sống thiêng liêng và cả về thực hành. Cùng với những người đồng hội hay bạn bè trong các tiểu tổ, họ họp bàn kiểm điểm về phương pháp cũng như kết quả các hoạt động tông đồ, và cùng nhau đối chiếu nếp sống hằng ngày với chính Tin Mừng.

Phải thực hiện chương trình đào tạo với nội dung bao gồm tất cả các đường hướng hoạt động tông đồ của người giáo dân, một hoạt động không chỉ được thực thi giữa những nhóm nhỏ trong các đoàn thể, nhưng còn trong mọi hoàn cảnh của cả cuộc đời, nhất là trong nếp sống nghề nghiệp và xã hội. Hơn nữa, bất kỳ người giáo dân nào cũng đều phải tích cực tự trang bị khả năng làm tông đồ, đòi hỏi này lại càng thúc bách hơn nơi những người trưởng thành. Thật vậy, trải qua năm tháng, với tâm trí ngày thêm sâu sắc, mỗi người càng có điều kiện thể hiện tốt đẹp hơn nữa những tài năng Chúa ban, cũng như có thể sử dụng hữu hiệu hơn nữa những đoàn sủng đã lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần để mưu ích cho anh chị em trong cộng đoàn.

31.

Cần có những chương trình đào tạo đặc biệt, tương ứng với từng dạng thức hoạt động tông đồ:

a) Để tham gia vào công cuộc loan báo Tin Mừng và thánh hoá mọi người, giáo dân phải được đào tạo đặc biệt để có thể đối thoại với người khác, cả những người có đức tin cũng như những người không tin, để trình bày sứ điệp Chúa Kitô cho mọi người5.

Trong thời hiện đại, nhiều hình thức duy vật chủ nghĩa đang lan tràn khắp nơi, ngay cả giữa những người công giáo, vì thế giáo dân vừa phải chuyên cần tìm hiểu sâu xa hơn về giáo lý công giáo, đặc biệt là những điểm đang cần biện luận, vừa phải thể hiện nếp sống đúng theo Tin Mừng như một lời chứng chống lại tất cả các kiểu sống duy vật.

b) Đối với việc canh tân trật tự trần thế theo tinh thần Kitô giáo, người giáo dân phải được học hỏi về ý nghĩa và giá trị đích thực những của cải trần gian, xét theo chính bản chất của chúng, hoặc theo mối tương quan giữa chúng với cứu cánh của con người; phải học biết cách sử dụng đúng đắn mọi sự và được hướng dẫn trong việc tổ chức các đoàn hội, trong khi vẫn luôn quan tâm đến công ích theo những nguyên tắc của học thuyết luân lý và xã hội của Giáo Hội. Đặc biệt, giáo dân phải tìm hiểu thấu đáo các nguyên tắc và định đề của học thuyết xã hội, để có thể hoặc góp phần vào việc triển khai học thuyết, hoặc đưa vào áp dụng thích ứng cho từng trường hợp cá biệt6.

c) Các hành vi thể hiện đức bác ái và lòng nhân hậu là chứng từ rõ nét nhất của đời sống Kitô hữu, vì thế việc đào tạo tông đồ cũng phải khuyến khích để các môn đệ Chúa Kitô, ngay từ thiếu thời, đã biết chia sẻ nỗi đau khổ của anh chị em và quảng đại giúp đỡ những người thiếu thốn7.

32.

Người tông đồ giáo dân hiện nay có được nhiều phương tiện, chẳng hạn những khoá học tập, những kỳ đại hội, những cuộc tĩnh tâm, linh thao, những ngày họp mặt thường xuyên, những buổi thuyết trình, sách báo và tài liệu chú giải, cho phép họ nâng cao kiến thức về Thánh Kinh và giáo lý công giáo, đồng thời nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng cũng như giúp họ nhận thức rõ hiện trạng của thế giới, để có thể tìm ra và áp dụng những phương pháp thích hợp cho hoạt động tông đồ8.

Nên thích ứng những phương thế hỗ trợ đào tạo nêu trên với các dạng thức tông đồ khác nhau trong từng môi trường hoạt động.

Nhiều trung tâm và học viện cao đẳng dành cho việc đào tạo tông đồ đã được thành lập và đem lại nhiều kết quả tốt đẹp.

Thánh Công Đồng vui mừng khi thấy đề xướng này đã được triển khai tại nhiều nơi và mong muốn nhiều cơ sở khác cũng sẽ được xây dựng tại những nơi đang có nhu cầu.

Ngoài ra, cũng nên thiết lập những trung tâm thu thập tài liệu và nghiên cứu, không chỉ về thần học, nhưng cả về các ngành nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học, phương pháp luận, liên quan đến tất cả các lãnh vực tông đồ, để giúp anh chị em giáo dân thuộc mọi lứa tuổi có thể phát huy tốt đẹp hơn nữa khả năng hoạt động tông đồ.

 

LỜI KÊU GỌI

33.

Vì thế, Thánh Công Đồng khẩn thiết gửi đến toàn thể các tín hữu giáo dân lời kêu gọi trong Chúa, hãy tự nguyện, nhiệt tình và thành tâm đáp trả tiếng Chúa Kitô đang tha thiết mời gọi, và hành động theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Giới trẻ hãy hiểu rằng lời mời gọi này được đặc biệt gởi đến cho họ, ước gì được họ hân hoan và quảng đại đón nhận. Quả thật, qua Thánh Công Đồng này, một lần nữa chính Chúa mời gọi tất cả giáo dân hãy kết hợp với Người ngày càng mật thiết hơn và biết cảm nhận nơi bản thân mình những tâm tình của chính Người (x. Ph 2,5), hãy tham gia vào sứ mệnh của Đấng Cứu Thế; một lần nữa, Người lại sai họ đi tới các thành và những nơi Người sẽ đến (x. Lc 10,1); như thế, trong cùng một sứ vụ tông đồ của Giáo Hội, nhưng bằng nhiều hình thái và phương thức khác nhau không ngừng thích nghi với những nhu cầu mới của thời đại, giáo dân hãy chứng tỏ mình là những cộng tác viên của Giáo Hội, luôn tận tình tham gia công việc của Chúa, bởi biết rằng, trong Chúa, sự khó nhọc của mình không trở nên vô ích (x. 1 Cr 15,58).

Tất cả và từng điều được ban bố trong Sắc Lệnh này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 18 tháng 11 năm 1965
Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)

 


1 x. GIOAN XXIII, Tông hiến Human„ Salutis, 25.12.1961: AAS 54 (1962), tr. 7-10.

2 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 33tt.: AAS 57 (1965), tr. 39tt.; Xem thêm Hiến Chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 26-40: AAS 56 (1964), tr. 107-111; x. Sắc lệnh về các phương tiện truyền thông xã hội Inter Mirifica: ASS 56 (1964), tr. 145-153; x. Sắc lệnh về Đại kết Unitatis Redintegratio: AAS 57 (1965), tr. 90-107; x. Sắc lệnh về Nhiệm vụ mục tử của các Giám mục trong Giáo Hội Christus Dominus, 16, 17, 18; x. Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo Gravissimum Educationis, 3, 5, 7.

3 x. PIÔ XII, Huấn từ cho các Hồng Y, 18.2.1946: AAS 38 (1946), tr. 101-102; PIÔ XII, Bài giảng cho Đoàn Thanh Lao Công, 25.8.1957: AAS 49 (1957), tr. 843.

1 x. PIÔ XI, Thông điệp Rerum Ecclesi„: AAS (1926), tr. 65.

2 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 31.

3 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 33; xem thêm, 10.

4 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 12.

5 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, 11.

6 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 32; xem thêm, 40-41.

7 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 62; xem thêm, 65.

1 x. PIÔ XI, Thông điệp Ubi arcano, 23.12.1922: AAS 14 (1922) tr. 659; PIÔ XII, Thông điệp Summi Pontificatus, 20.10.1939: AAS 31 (1939), tr. 442-443.

2 x. LÊÔ XIII. Thông điệp Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), tr. 647; PIÔ XI, Thông điệp Quadragesimo Anno: AAS 23 (1931), tr. 190; PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh, 1.6.1941: AAS 33 (1941), tr. 207.

3 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: AAS 53 (1961), tr. 402.

4 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: AAS 53 (1961), tr. 440-441.

5 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra: AAS 53 (1961), tr. 442-443.

6 x. PIÔ XII, Huấn từ cho Hội Pax Romana M.I.I.C, 25.4.1957: AAS 49 (1957), tr. 298-299. Và nhất là GIOAN XXIII, Diễn văn tại Hội nghị “Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp” Liên Hợp Quốc (F.A.O.), 10.11.1959: AAS 51 (1959), tr. 856, 866.

1 x. PIÔ X, Tông thư Creationis duarum novarum paroeciarum, 1.6.1905: AAS 38 (1905), tr. 65-67; PIÔ XII, Huấn từ cho giáo dân xứ S. Saba, 11.1.1953: Discorsi e Radiomessaggi di diocesi suburbicaria Albanesi, ad Arcem Gandulfi habita: 26.8.1962: AAS 54 (1962), tr. 656-660.

2 x. LÊÔ XIII, Huấn từ, 28.1.1894: Acta 14 (1894), tr. 424-425.

3 x. PIÔ XII, Huấn từ cho các cha xứ, v.v..., 6.2.1951: Discorsi e Radiomessaggi di S.S. Piô XII, 12 (1950-1951), tr. 437-443; 8.3.1952: Discorsi e Radiomessaggi di S.S. Piô XII, 14 (1952-1953), tr. 5-10; 27.3.1953: Discorsi e Radiomessaggi di S.S. Piô XII, 15 (1953-1954), tr. 27-35; 28.2.1954: Discorsi e Radiomessaggi di S.S. Piô XII, 15 (1953-1954), tr. 585-590.

4 x. PIÔ XI, Thông điệp Casti Connubii: AAS 22 (1930), tr. 554; PIÔ XII, Sứ điệp truyền thanh, 1.1.1941: AAS 33 (1941), tr. 203; PIÔ XI, Huấn từ cho các đại biểu tham dự Hội nghị quốc tế Bảo vệ quyền lợi các gia đình, 20.9.1949: AAS 41 (1949), tr. 552; PIÔ XI, Huấn từ cho các gia trưởng Pháp đang đi hành hương tại Rôma, 18.9.1951: AAS 43 (1951), tr. 731; PIÔ XI, Sứ điệp truyền thanh dịp lễ Giáng Sinh 1952: AAS 45 (1953), tr. 41; GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra, 15.5.1961: AAS 53 (1961), tr. 429, 439.

5 x. PIÔ XII, Thông điệp Evangelii Pr„cones, 2.6.1951: AAS 43 (1951), tr. 514.

6 x. PIÔ XII, Huấn từ cho các đại biểu tham dự Hội nghị quốc tế Bảo vệ quyền lợi các gia đình, 20.9.1949: AAS 41 (1949), tr. 552.

7 x. PIÔ X, Huấn từ cho Hiệp hội Công giáo Giới Trẻ Pháp về lòng đạo đức, tri thức và hành động, 25.9.1904: AAS 37 (1904-1905), tr. 296-300.

8 x. PIÔ XII, Thư Dans quelques semaines, gởi Đức Tổng Giám Mục Montréal về việc tổ chức Đại hội Thanh Lao Công Canada, 24.5.1947: AAS 39 (1947), tr. 257; và Sứ điệp truyền thanh gửi Đoàn Thanh Lao Công Bruxelles, 2.9.1950: AAS 42 (1950), tr. 640-641.

9 x. PIÔ XI, Thông điệp Quadragesimo Anno, 15.5.1931: AAS 23 (1931), tr. 225-226.

10 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra, 15.5.1961: AAS 53 (1961), tr. 448-450.

1 x. PIÔ XII, Huấn từ gửi Hội nghị Tông đồ giáo dân thế giới lần I, 14.10.1951: AAS 43 (1951), tr. 788.

2 x. PIÔ XII, Huấn từ gửi Hội nghị Tông đồ giáo dân thế giới lần I, 15.10.1951: AAS 43 (1951), tr. 787-788.

3 x. PIÔ XII, Thông điệp Le pèlerinage de Lourdes, 2.7.1957: AAS 49 (1957), tr. 615.

4 x. PIÔ XII, Huấn từ gửi Ủy ban Quốc tế giới Trưởng thành Công giáo, 8.12.1956: AAS 49 (1957), tr. 26-27.

5 Xem đoạn sau của Sắc lệnh này, ch. V, số 24.

6 x. S. C. CONCILII, Resolutio Corrienten, 13.11.1920: AAS 13 (1921), tr. 139.

7 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Princeps Pastorum, 10.12.1959: AAS 51 (1959), tr. 856.

8 x. PIÔ XI, Thư Qu„ nobis, gởi Đức Hồng Y Bestram, 13.11.1928: AAS 20 (1928), tr. 385; xem thêm PIÔ XII, Huấn từ gửi Đoàn Công Giáo Tiến hành Italia, 4.9.1940: AAS 32 (1940), tr. 362.

1 x. PIÔ XI, Thông điệp Quamvis Nostra, 30.4.1936: AAS 28 (1936), tr. 160-161.

2 x. S. C. CONCILII, Resolutio Corrienten, 13.11.1920: AAS 13 (1921), tr. 137-140.

3 x. PIÔ XII, Huấn từ gửi Hội nghị Tông đồ giáo dân thế giới lần II, 5.10.1957: AAS 49 (1957), tr. 927.

4 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 37.

5 x. PIÔ XII, Tông huấn Menti Nostr„, 23.9.1950: AAS 42 (1950), tr. 660.

6 x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Canh tân thích nghi đời sống dòng tu Perfect„ Caritatis, 8.

7 x. BÊNÊĐICTÔ XIV, De Synodo Diocesana, quyển III, chương IX, số VII-VIII: bộ XI (tác phẩm gồm tất cả 16 bộ) (Prati, 1844), tr. 76-77.

8 x. PIÔ XI, Thông điệp Quamvis Nostra, 30.4.1936: AAS 28 (1936), tr. 160-161.

9 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra, 15.5.1961: AAS 53 (1961), tr. 456-457; x. CĐ VATICANÔ II, Sắc lệnh về Hiệp Nhất Unitatis Redintegratio, 12.

1 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, ch. II, IV, V: xem thêm Sắc lệnh về Hiệp nhất Unitatis Redintegratio, 4, 6, 7, 12; xem thêm số 4 của chính Sắc lệnh này.

2 x. PIÔ XII, Huấn từ gửi Hội nghị Quốc tế lần thứ VI của Hướng Đạo Sinh, 6.6.1952: AAS 44 (1952), tr. 579-580; GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra, 15.5.1961: AAS 53 (1961), tr. 456.

3 x. CĐ VATICANÔ II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 33.

4 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra, 15.5.1961: AAS 53 (1961), tr. 455.

5 x. PIÔ XII, Thông điệp Sertum L„titi„, 1.11.1939: AAS 31 (1939), tr. 635-644; xem PIÔ XII, Ad “laureati” Act. Cath. It, 24.5.1953: AAS 45 (1953), tr. 413-414.

6 x. PIÔ XII, Huấn từ gửi Đại hội toàn cầu của Liên đoàn Thanh nữ Công giáo thế giới, 18.4.1952: AAS 44 (1952), tr. 414-419; xem PIÔ XII, Huấn từ gửi Hiệp hội Công nhân Kitô hữu Italia (A.C.L.I), 1.5.1955: AAS 47 (1955), tr. 403-404.

7 x. PIÔ XII, Huấn từ gửi các Đại biểu tham dự Hội nghị Tương trợ Bác ái, 27.4.1952: AAS 44 (1952), tr. 470-471.

8 x. GIOAN XXIII, Thông điệp Mater et Magistra, 15.5.1961: AAS 53 (1961), tr. 454.

 

Tác giả: Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin
Nguồn: giaolyductin.net
Tag:

Các tin khác:


Các tin đã đưa ngày: