CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II - SẮC LỆNH VỀ ĐẠI KẾT

24 / 04/ 2015, 03:04:54

PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ

 

SẮC LỆNH VỀ ĐẠI KẾT

UNITATIS REDINTEGRATIO

Ngày 21 tháng 11 năm 1964

 

LỜI MỞ ĐẦU

1.

Cổ vũ việc tái lập sự hợp nhất giữa toàn thể các Kitô hữu là một trong những mục tiêu chính của Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II. Quả thực, Đức Kitô đã thiết lập một Giáo Hội và chỉ một Giáo Hội duy nhất, thế nhưng nhiều cộng đồng Kitô giáo tự xưng với mọi người rằng chính mình mới là di sản đích thực của Đức Kitô; thật vậy, tất cả đều tuyên xưng mình là môn đệ của Chúa, nhưng lại khác biệt nhau về quan điểm và đi theo những đường lối xa cách nhau, như thể chính Đức Kitô đã bị chia cắt1. Quả thực, sự phân rẽ này vừa trái ngược tỏ tường với ý muốn của Đức Kitô, vừa là cớ vấp phạm cho thế giới và gây tổn hại cho sứ mạng rất cao cả là rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.

Tuy nhiên, Chúa các thời đại, Đấng luôn khôn ngoan và nhẫn nại tiếp tục ý định trao ban ân sủng của Người cho chúng ta là những kẻ tội lỗi, trong thời gian gần đây đã bắt đầu tuôn đổ dồi dào trên các Kitô hữu đang tách rời nhau, tinh thần thống hối và ước vọng hợp nhất. Ân sủng này đã thúc đẩy rất nhiều người ở khắp nơi, và nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, phong trào tái lập sự hợp nhất tất cả các Kitô hữu đã được khởi phát, ngày càng lan rộng hơn nơi những anh em đang tách rời khỏi chúng ta. Phong trào tìm về hợp nhất này cũng được gọi là phong trào Đại Kết, nhận được sự tham gia của những người tôn thờ Chúa Ba Ngôi và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Thế, không chỉ từng cá nhân riêng rẽ, nhưng còn quy tụ thành những cộng đoàn, trong đó họ được nghe Tin Mừng, và mỗi nhóm gọi đó là Giáo Hội của mình và cũng là Giáo Hội của Thiên Chúa. Mặc dầu bằng những cách thức khác nhau, nhưng gần như tất cả đều khao khát nhìn thấy một Giáo Hội duy nhất và hữu hình của Thiên Chúa, một Giáo Hội thực sự phổ quát và được sai đi khắp trần gian, để thế giới quay về với Tin Mừng và nhờ đó được cứu rỗi để Thiên Chúa được vinh hiển.

Vì thế, khi vui mừng ghi nhận tất cả những điều ấy, và sau khi công bố học thuyết về Giáo Hội, đồng thời được thôi thúc bởi ước nguyện tái lập sự hợp nhất giữa tất cả các môn đệ Đức Kitô, Thánh Công Đồng muốn đề ra cho mọi người công giáo những phương thức hỗ trợ, những đường hướng và cách thế hành động để có thể đáp trả lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa.

 

CHƯƠNG I
 

NHỮNG NGUYÊN TẮC CÔNG GIÁO VỀ ĐẠI KẾT

2.

Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã tỏ hiện trong việc Thiên Chúa Cha sai Con Một Ngài đến trần gian, làm người và tái sinh toàn thể nhân loại bằng hồng ân cứu chuộc và quy tụ tất cả nên một1. Chính Người, trước khi tự hiến làm lễ vật tinh tuyền trên bàn thờ Thánh giá, đã cầu nguyện cùng Chúa Cha cho những kẻ đã tin vào Người: “Xin cho tất cả được nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ được nên một trong Chúng Ta và để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21). Và Người đã thiết lập trong Giáo Hội của Người bí tích Thánh Thể kỳ diệu, vừa diễn tả vừa thực hiện sự hợp nhất của Giáo Hội. Người ban cho các môn đệ Người giới răn mới về tình yêu thương nhau2 và hứa ban Thánh Thần Phù Trợ3, là Chúa và là Đấng ban sự sống, để ở với họ luôn mãi.

Sau khi chịu treo trên Thập giá và được tôn vinh, Chúa Giêsu ban Thánh Thần Người đã hứa, nhờ Chúa Thánh Thần, Người kêu gọi đoàn dân của Giao Ước Mới chính là Giáo Hội, và quy tụ họ trong cùng một đức tin, đức cậy và đức mến, như Thánh Tông Đồ dạy: “Chỉ có một thân thể và một Thánh Thần, cũng như anh em được kêu gọi trong một niềm hy vọng của ơn kêu gọi anh em. Chỉ có một Chúa, một đức Tin, một phép Rửa” (Ep 4,4-5). “Thật vậy, bất kỳ ai trong anh em được rửa tội trong Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô... Vậy, tất cả anh em chỉ là một trong Chúa Giêsu Kitô” (Gl 3,27-28). Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong các tín hữu, cũng là Đấng làm sung mãn và hướng dẫn toàn thể Giáo Hội, chính Ngài thực hiện sự thông hiệp kỳ diệu nơi các tín hữu, và liên kết tất cả trong Đức Kitô cách mật thiết đến nỗi Ngài trở thành Nguyên Lý hợp nhất Giáo Hội. Chúa Thánh Thần phân phối các ân sủng và các tác vụ4 để Giáo Hội Đức Kitô được nên phong phú nhờ có nhiều phận vụ khác nhau, “từ đó các thánh được chuẩn bị để thực thi tác vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô” (Ep 4,12).

Tuy nhiên, để gầy dựng Giáo Hội thánh thiện của Người khắp nơi trên mặt đất cho đến tận thế, Đức Kitô đã ủy thác cho Nhóm Mười Hai nhiệm vụ giáo huấn, hướng dẫn và thánh hóa5. Trong số các Tông đồ, Chúa đã chọn Phêrô như là nền đá, trên đó, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Người đã quyết định xây dựng Giáo Hội của Người. Người hứa trao cho ông chìa khoá nước trời6 và sau khi Phêrô xác quyết tình yêu của mình, Người đã trao phó cho ông toàn thể đoàn chiên để ông củng cố trong đức tin7 và chăn dắt trong sự hợp nhất vẹn toàn8, tuy nhiên chính Chúa Giêsu Kitô vẫn là tảng đá góc9 và là chủ chăn linh hồn chúng ta10 cho đến muôn đời.

Qua các Tông đồ và các Giám mục kế vị các ngài, cùng với thủ lãnh là người kế vị Thánh Phêrô, nhờ việc các ngài trung thành rao giảng Phúc Âm, trao ban các bí tích và cai quản trong yêu thương, Chúa Giêsu Kitô muốn cho đoàn dân của Người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, được luôn tăng trưởng và kiện toàn sự thông hiệp trong tình hợp nhất: cùng tuyên xưng một đức tin, cùng cử hành một nghi lễ phụng tự, cùng hoà hợp huynh đệ trong một gia đình của Thiên Chúa.

Như thế, là đoàn chiên duy nhất của Thiên Chúa, được đặt lên như dấu chỉ trước mặt muôn dân11, được ủy thác sứ vụ đem Tin Mừng bình an cho toàn thể nhân loại12, Giáo Hội thực hiện cuộc lữ hành trong niềm hy vọng tiến về cùng đích là quê trời13.

Đó là mầu nhiệm thánh thiêng của sự hợp nhất Giáo Hội, trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, cùng với Chúa Thánh Thần đang hành động trong nhiều phận vụ khác nhau. Khuôn mẫu và nguyên lý cao vời của mầu nhiệm này chính là sự hợp nhất trong Ba Ngôi của một Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con trong Thánh Thần.

3.

Trong Giáo Hội duy nhất đó của Thiên Chúa, ngay từ buổi sơ khai đã xuất hiện ít nhiều rạn nứt14 mà Thánh Tông Đồ đã nghiêm khắc khiển trách như một điều cần ngăn chặn15; rồi trong các thời đại kế tiếp, lại nảy sinh nhiều phân rẽ trầm trọng hơn và nhiều Cộng đồng lớn đã tách khỏi sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo, đôi khi do sai lỗi của những người ở cả hai bên. Tuy nhiên, ngày nay, những người được sinh ra và tiếp nhận niềm tin vào Chúa Kitô trong các Cộng đồng ấy, không thể bị kết tội chia rẽ và Giáo Hội Công giáo vẫn kính trọng, yêu thương họ như anh em. Thật vậy, những người tin vào Chúa Kitô và đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy thành sự, vẫn hiệp thông cách nào đó với Giáo Hội Công giáo cho dù không được trọn vẹn. Chắc chắn những khác biệt trong nhiều cấp độ giữa họ và Giáo Hội Công giáo về giáo thuyết, hoặc về kỷ luật hay cơ cấu tổ chức, đã là những trở ngại, đôi khi cũng khá nghiêm trọng đối với tình hiệp thông trọn vẹn trong Giáo Hội, phong trào Đại Kết đang cố gắng vượt qua những trở ngại ấy. Nhưng dù sao đi nữa, bởi đã được công chính hoá nhờ đức tin khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, họ đã được tháp nhập vào Chúa Kitô16 và vì thế có quyền mang danh Kitô hữu, và đáng được con cái của Giáo Hội Công giáo nhìn nhận là anh em trong Chúa17.

Hơn nữa, trong các yếu tố hoặc gia sản đã góp phần xây dựng và tác sinh Giáo Hội, có một số điều, thậm chí rất nhiều và là những điều thật cao quý, có thể nằm ngoài phạm vi hữu hình của Giáo Hội Công giáo, như Lời Chúa trong Sách Thánh, đời sống ân sủng, đức tin, đức cậy, đức mến, các ân huệ thiêng liêng của Chúa Thánh Thần, và những yếu tố hữu hình khác nữa: tất cả những điều đó, xuất phát từ Đức Kitô và dẫn đưa về chính Người, đương nhiên cũng thuộc về Giáo Hội duy nhất của Người.

Cũng vậy, nơi các anh em đã tách rời khỏi chúng ta, một số nghi lễ thánh thiêng của Kitô giáo vẫn được cử hành; tuy cách thức có khác nhau tuỳ hoàn cảnh của mỗi Giáo Hội hay Cộng Đồng, những nghi lễ ấy chắc chắn có hiệu năng làm phát sinh đời sống ân sủng và phải được đón nhận như những lối mở dẫn đến sự hiệp thông mang lại ơn cứu rỗi.

Do đó, các Giáo Hội18 và các Cộng Đồng ly khai ấy vẫn không hoàn toàn mất đi ý nghĩa và giá trị trong mầu nhiệm cứu rỗi, dù chúng ta tin rằng nơi họ vẫn còn một số điều khiếm khuyết. Thật vậy, Thánh Thần của Chúa Kitô vẫn dùng họ như những khí cụ mang lại ơn cứu rỗi, nhờ vào năng lực phát xuất từ chính sự sung mãn của ân sủng và chân lý đã được trao ban cho Giáo Hội Công giáo.

Nhưng các anh em đã tách rời khỏi chúng ta, cá nhân cũng như Cộng Đồng và các Giáo Hội của họ, không được hưởng sự hợp nhất mà Chúa Giêsu Kitô đã muốn trao ban cho những kẻ Người đã tái sinh và thông truyền sự sống mới trong một thân thể duy nhất, sự hợp nhất mà Thánh Kinh và Truyền Thống đáng kính của Giáo Hội đều tuyên xưng. Thật vậy, các phương thế cứu rỗi chỉ có thể được tìm thấy đầy đủ nơi trợ tá phổ quát của ơn cứu rỗi là Giáo Hội Công giáo của Chúa Kitô. Thật vậy, chúng ta tin rằng Chúa đã ủy thác tất cả ơn phúc của Giao ước mới cho một Tông Đồ Đoàn duy nhất, với thánh Phêrô là người đứng đầu, để làm cho tất cả những ai đã thuộc về Dân Chúa theo một cách thức nào đó, cũng được tháp nhập trọn vẹn vào Thân Thể duy nhất của Đức Kitô đã được thiết lập nơi trần gian này. Trên đường lữ thứ trần gian, mặc dù các thành viên có thể vẫn còn sa ngã phạm tội, nhưng đoàn dân ấy vẫn lớn lên trong Đức Kitô và được Thiên Chúa dịu dàng hướng dẫn theo ý định nhiệm mầu của Ngài, cho đến khi họ vui mừng đạt tới vinh quang vĩnh cửu và sung mãn nơi thành thánh Giêrusalem trên trời.

4.

Ngày nay tại nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhiều nỗ lực đang được thực hiện trong kinh nguyện, lời nói và hành động, nhằm tiến tới sự hợp nhất trọn vẹn theo như ý muốn của Chúa Giêsu Kitô, vì thế, Thánh Công Đồng khuyến khích tất cả các tín hữu công giáo hãy nhận ra những dấu chỉ thời đại để tích cực tham gia vào công cuộc đại kết.

Phải hiểu “phong trào Đại Kết” là những hoạt động và sáng kiến được khởi xướng và tổ chức, dựa vào nhiều nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và những thời cơ thuận tiện, nhằm cổ vũ sự hợp nhất các Kitô hữu: trước tiên đó là mọi nỗ lực loại bỏ những lời nói, xét đoán và hành vi thiếu công bình và không đúng sự thật về các anh em ly khai, những điều chỉ làm cho mối tương giao càng thêm khó khăn; thứ đến là việc “đối thoại” giữa những chuyên viên đã nắm vững các vấn đề, được thực hiện trong các buổi hội họp được tổ chức với tinh thần đạo đức giữa các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo Hội hay Cộng Đồng khác nhau, qua đó mỗi người sẽ giải thích cặn kẽ và trình bày minh bạch những nét độc đáo về giáo lý của từng Cộng Đồng. Nhờ đối thoại như thế, mọi người sẽ hiểu biết chính xác hơn và có thái độ tôn trọng thích đáng hơn đối với giáo thuyết cũng như nếp sống của mỗi Cộng Đồng; cũng nhờ đó các Cộng Đồng sẽ hợp tác với nhau rộng rãi hơn trong những hoạt động mưu tìm thiện ích chung theo như đòi hỏi của lương tâm Kitô hữu, và khi hoàn cảnh cho phép, mọi người cùng quy tụ lại trong những buổi cầu nguyện chung. Sau cùng, tất cả cần kiểm điểm về thái độ trung thành thực hiện ý muốn của Đức Kitô về Giáo Hội, đồng thời luôn kiên trì nỗ lực tiến hành việc canh tân và cải tổ.

Tất cả những điều đó, nếu được các tín hữu trong Giáo Hội Công giáo khôn ngoan và kiên nhẫn thực hiện dưới sự giám sát của các Chủ chăn, sẽ góp phần mang lại công bình và chân lý, đưa đến thái độ đồng tâm và hiệp lực, phát huy tinh thần huynh đệ và hợp nhất; nhờ đó, sau khi đã vượt qua những trở ngại ngăn cản sự hiệp thông trọn vẹn trong Giáo Hội, dần dần tất cả các Kitô hữu sẽ đoàn tụ trong cùng một cử hành bí tích Thánh Thể, trong sự hợp nhất của một Giáo Hội duy nhất, sự hợp nhất do Đức Kitô rộng ban cho Giáo Hội của Người ngay từ ban đầu, sự hợp nhất mà chúng ta tin rằng vẫn luôn tồn tại trong Giáo Hội Công giáo và hy vọng ngày càng phát triển thêm mãi cho đến ngày tận thế.

Dĩ nhiên, việc chuẩn bị và thực hiện hoà giải đối với những cá nhân ao ước hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công giáo, tự bản chất khác với sáng kiến đại kết; tuy nhiên, những tiến trình đó không đối lập nhau vì cả hai đều khởi phát từ sự an bài kỳ diệu của Thiên Chúa.

Trong khi hoạt động cho đại kết, chắc chắn các tín hữu công giáo phải tỏ ra ân cần đối với các anh em ly khai, bằng cách cầu nguyện cho họ, trao đổi với họ về những điều liên quan đến Giáo Hội, và đi bước trước để gặp gỡ họ. Điều cần hơn cả là phải thành tâm và chú ý nghiệm xét những gì phải canh tân và thực hiện trong chính Gia đình Công giáo, để đời sống Giáo Hội trở nên chứng tá trung thành và trong sáng hơn về giáo lý và những định chế do Đức Kitô truyền lại qua các Tông đồ.

Mặc dù Giáo Hội Công giáo đã đón nhận cách sung mãn toàn bộ chân lý do Chúa mặc khải cũng như tất cả những phương tiện trao ban ân sủng, nhưng các phần tử của Giáo Hội lại không sống những ơn phúc đó với tất cả lòng nhiệt thành cần phải có, nên khuôn mặt của Giáo Hội chưa toả sáng cho những anh em đã tách rời khỏi chúng ta cũng như cho toàn thế giới, và việc phát triển nước Thiên Chúa cũng còn gặp trở ngại. Vì thế, tất cả mọi người công giáo phải hướng đến sự hoàn thiện Kitô hữu19, và trong từng hoàn cảnh, mỗi người phải cố gắng làm cho Giáo Hội, trong khi vẫn mang nơi thân thể mình sự khiêm hạ và hy sinh của Chúa Giêsu20, càng ngày càng được thanh tẩy và canh tân cho tới khi Đức Kitô có được trước mặt Người một Giáo Hội rạng rỡ, không tì ố, không vết nhăn21.

Trong khi luôn gìn giữ sự hợp nhất trong những điều thiết yếu, tất cả mọi người trong Giáo Hội, tuỳ theo phận vụ được giao phó, vẫn được tự do trong những dạng thức khác nhau về đời sống thiêng liêng và kỷ luật, cũng như trong các lễ nghi phụng tự và ngay cả trong việc khảo cứu thần học về các chân lý mặc khải; tuy nhiên trong tất cả mọi sự, hãy thực thi đức bác ái. Khi hành động như thế, họ sẽ làm cho đặc tính công giáo và tông truyền đích thực của Giáo Hội ngày càng được biểu lộ trọn vẹn hơn.

Ngoài ra, người công giáo phải vui mừng nhìn nhận và tôn trọng những giá trị thực sự mang tính cách Kitô giáo, phát xuất từ cùng một gia sản chung, được tìm thấy nơi các anh em đã tách rời khỏi chúng ta. Nhìn nhận những ơn phúc dồi dào và sức mạnh của Đức Kitô đang tác động trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người đôi khi đến phải đổ máu, việc đó thật là chính đáng và có giá trị cứu rỗi, vì Thiên Chúa là Đấng đáng ca tụng và phải được ca tụng trong những việc Ngài làm.

Cũng đừng quên rằng, tất cả những gì ơn Chúa Thánh Thần đang thực hiện nơi các anh em ly khai, đều có thể góp phần trong việc xây dựng cho chính chúng ta. Bất cứ điều gì thực sự mang tính cách Kitô giáo không bao giờ đối nghịch với đức tin chân thật, trái lại luôn có thể giúp nhận thức trọn vẹn hơn chính mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội.

Tuy nhiên, sự chia rẽ giữa các Kitô hữu đang ngăn cản Giáo Hội thể hiện đầy đủ đặc tính công giáo nơi chính những người con của mình, tuy đã thuộc về Giáo Hội nhờ bí tích Thánh Tẩy, nhưng lại tách rời khỏi sự thông hiệp trọn vẹn với Giáo Hội. Hơn nữa, đối với chính Giáo Hội, việc diễn tả đầy đủ tính cách công giáo dưới mọi khía cạnh trong đời sống thực tế cũng trở thành khó khăn hơn.

Trong niềm vui khi nhận thấy các tín hữu công giáo ngày càng tham gia nhiều hơn vào hoạt động đại kết, Thánh Công Đồng trao phó công việc ấy cho các Giám mục ở khắp nơi trên thế giới, để các ngài tích cực cổ vũ và khôn ngoan hướng dẫn.

 

CHƯƠNG II


THỰC HÀNH ĐẠI KẾT

5.

Toàn thể Giáo Hội, tín hữu cũng như chủ chăn, đều phải quan tâm đến công cuộc tái lập sự hợp nhất, và tất cả đều phải tham gia tuỳ theo khả năng mỗi người, trong đời sống Kitô hữu hằng ngày hay trong các công trình nghiên cứu thần học và sử học. Thái độ quan tâm này cách nào đó chứng tỏ mối liên kết huynh đệ vẫn tiềm tàng giữa các Kitô hữu và đang dẫn tới sự hợp nhất trọn vẹn và hoàn hảo theo như ý định nhân lành của Thiên Chúa.

6.

Tất cả công cuộc canh tân1 cốt yếu hệ tại ở việc Giáo Hội càng ngày càng sống trung thành với ơn gọi của mình, vì thế nỗ lực đổi mới chính là lý do giải thích tại sao có phong trào tìm về hợp nhất. Trên đường lữ hành, Giáo Hội được Đức Kitô mời gọi phải đổi mới liên lỉ, đây là điều luôn luôn cần thiết vì Giáo Hội là một định chế nhân loại tại thế; vì vậy, trong phong hoá, hoặc trong kỷ luật, hoặc cả trong cách trình bày giáo lý – dĩ nhiên phải phân biệt cách trình bày với chính nội dung đức tin – nếu vì hoàn cảnh mà một số điểm nào đó đã không được tuân giữ chu đáo, Giáo Hội phải kịp thời và nghiêm túc sửa đổi.

Vì thế, việc đổi mới có giá trị đặc biệt đối với công cuộc đại kết. Nhiều cách thức đổi mới đã được thực hiện trong đời sống Giáo Hội - chẳng hạn như phong trào Thánh Kinh và Phụng vụ, việc rao giảng lời Chúa và dạy giáo lý, hoạt động tông đồ giáo dân, những hình thức mới trong đời tu trì, linh đạo hôn nhân, học thuyết và hoạt động xã hội của Giáo Hội - đó là những hoạt động được đánh giá như là những bảo chứng và điềm lành báo trước những tiến bộ trong tương lai của công cuộc đại kết.

7.

Tiến trình đại kết đích thực luôn đòi hỏi phải có hoán cải nội tâm. Thật vậy, những ước vọng hợp nhất khởi phát và thành tựu được chính là nhờ vào sự đổi mới tâm hồn2, từ bỏ chính mình và quảng đại thực thi bác ái. Vì thế, cần phải cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn biết thành thật từ bỏ, khiêm nhường và hiền hoà trong khi phục vụ, quảng đại trong tình huynh đệ đối với tha nhân. Vị Tông Đồ dân ngoại đã nói: “Đang bị xiềng xích trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy tiến bước cho xứng với ơn kêu gọi anh em đã được, với tất cả lòng khiêm nhường và hiền hậu, hãy nhẫn nại chịu đựng lẫn nhau trong đức ái; hãy lo lắng duy trì sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần trong mối dây hoà thuận” (Ep 4,1-3). Lời khuyên nhủ này trước hết gửi đến những người được nâng lên chức thánh để tiếp tục sứ mạng của Đức Kitô, Đấng đến giữa chúng ta “không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mt 20,28).

Lời chứng sau đây của Thánh Gioan vẫn còn giá trị đối với những sai lỗi chống lại sự hợp nhất: “Nếu chúng ta nói rằng mình không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối và lời của Người không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,10). Vì thế chúng ta hãy khiêm nhường xin Chúa và những anh em ly khai tha lỗi cho chúng ta, như chúng ta cũng tha những kẻ có nợ chúng ta.

Tất cả các Kitô hữu hãy luôn nhớ rằng, khi nỗ lực sống trọn vẹn theo Phúc Âm, họ sẽ cổ vũ, hơn nữa sẽ thực hiện sự hợp nhất các Kitô hữu cách tốt đẹp hơn. Thật vậy, khi càng kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, Ngôi Lời và Chúa Thánh Thần, họ lại càng dễ dàng thắt chặt tình huynh đệ với nhau hơn.

8.

Sự hoán cải tâm hồn và đời sống thánh thiện, liên kết với những lời cầu khẩn chung hay riêng cho sự hợp nhất các Kitô hữu, phải được coi như là linh hồn của tất cả phong trào đại kết, và có thể gọi đó là “công cuộc đại kết thiêng liêng”.

Người công giáo vẫn thường họp nhau để dâng lời cầu nguyện cho Giáo Hội được hợp nhất, lời cầu nguyện mà chính Đấng Cứu Thế, vào ngày trước khi chịu chết, đã khẩn khoản dâng lên Chúa Cha: “Xin cho tất cả nên một” (Ga 17,21).

Trong một số trường hợp đặc biệt, như khi tổ chức những ngày cầu nguyện “cho sự hợp nhất” và trong các buổi hội họp đại kết, người công giáo không những được phép mà còn được khuyến khích cùng cầu nguyện chung với những anh em ly khai. Những giờ kinh nguyện chung như thế là phương cách rất hữu hiệu để cầu xin ơn hiệp nhất, đồng thời cũng nêu lên ý nghĩa đích thực của những mối dây còn đang liên kết người công giáo với những anh em ly khai: “Vì ở đâu có hai hay ba người nhân danh Thầy hội họp lại, thì Thầy sẽ ở giữa họ” (Mt 18,20).

Tuy nhiên không được phép coi việc “thông dự vào các hành vi phụng tự thánh” như một phương cách có thể tuỳ tiện sử dụng trong việc tái lập hợp nhất các Kitô hữu. Việc thông dự ấy tuỳ thuộc chủ yếu vào hai nguyên tắc: biểu lộ đặc tính duy nhất của Giáo Hội và tham dự vào các phương tiện trao ban ân sủng. Nhiều khi, ý nghĩa của đặc tính duy nhất không cho phép thực hiện việc thông dự, nhưng đôi khi ân sủng đang cầu xin lại khuyến khích sự thông dự ấy. Về phương cách hành động cụ thể, tuỳ theo hoàn cảnh thời gian, không gian và nhân sự, sẽ được Đức Giám mục bản quyền địa phương khôn ngoan định đoạt, trừ khi Toà Thánh hay Hội đồng Giám mục theo quy chế riêng ấn định cách khác.

9.

Phải hiểu biết tâm ý của các anh em ly khai. Vì thế, cần phải nghiên cứu tìm hiểu với thái độ trung thực và thân tình. Những người công giáo có kiến thức chuyên môn, cần tìm hiểu sâu rộng hơn về học thuyết và lịch sử, về đời sống tu đức và phụng tự, về tâm thức tôn giáo và văn hoá riêng của các anh em ly khai. Những buổi hội họp giữa hai bên sẽ giúp ích rất nhiều cho việc tìm hiểu lẫn nhau, nhất là khi bàn về các vấn đề thần học, trong đó mọi người được bình đẳng bàn luận, với điều kiện là những người tham dự thật sự là những chuyên viên, làm việc dưới sự giám sát của các vị giáo trưởng. Qua cách thức đối thoại đó, lập trường của Giáo Hội Công giáo sẽ được trình bày rõ ràng hơn. Phương thế này cũng giúp chúng ta có thể am hiểu tâm tư của các anh em ly khai và trình bày đức tin cho họ cách thích hợp hơn.

10.

Thần học và các môn học khác, nhất là sử học, cũng phải được trình bày theo chiều hướng đại kết để đáp ứng chính xác hơn với hoàn cảnh thực tế.

Vì thế, các chủ chăn tương lai và các linh mục phải am tường khoa thần học được triển khai nghiêm túc theo ý hướng đó, chứ đừng theo lối luận chiến, nhất là trong các vấn đề liên hệ đến những mối tương quan giữa Giáo Hội Công giáo và các anh em ly khai.

Chính việc đào tạo linh mục sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với nhu cầu giáo dục và đào tạo tu đức cho các tín hữu và tu sĩ.

Cũng vậy, những người công giáo đang dấn thân hoạt động truyền giáo trong những miền đất chung với các Kitô hữu khác, đặc biệt trong thời buổi hiện nay, phải am tường các vấn đề cũng như các thành quả do công cuộc đại kết đem đến cho việc tông đồ của họ.

11.

Phương pháp và cách thức diễn tả đức tin công giáo phải làm sao để đừng gây trở ngại cho việc đối thoại với những người anh em. Tuyệt đối phải trình bày thật rõ ràng một hệ thống giáo thuyết toàn vẹn. Không gì phá hỏng công cuộc đại kết cho bằng chủ trương hoà đồng sai lạc, vừa làm tổn thương vừa làm lu mờ ý nghĩa đích thực và chắc chắn của giáo lý công giáo thuần túy.

Đồng thời phải sử dụng những cách thức và ngôn từ để giải thích sâu sắc và chính xác hơn, giúp cho các anh em ly khai có thể hiểu thật đúng về đức tin công giáo.

Ngoài ra, trong cuộc đối thoại đại kết, các nhà thần học công giáo, trong khi vẫn luôn theo sát giáo thuyết của Giáo Hội, phải cùng với các anh em ly khai tiến hành việc tìm hiểu các mầu nhiệm linh thánh trong thái độ yêu mến chân lý, bác ái và khiêm nhường. Khi phải đối chiếu các giáo thuyết với nhau, nên nhớ rằng có một trật tự hay một “phẩm trật” trong các chân lý của giáo thuyết công giáo, tuỳ theo mức độ liên hệ giữa các chân lý ấy với nền tảng đức tin Kitô giáo. Như thế, lối đường đã được vạch ra, trên đó tất cả mọi người đều được thúc đẩy cùng nhau thi đua trong tình anh em để tìm hiểu sâu xa và biểu lộ rõ ràng hơn sự phong phú khôn lường của Chúa Kitô3.

12.

Trước mặt muôn dân, toàn thể các Kitô hữu hãy tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất và có ba ngôi, tuyên xưng Con Thiên Chúa nhập thể là Đấng Cứu chuộc và là Chúa chúng ta; đồng thời bằng một nỗ lực chung trong thái độ tôn trọng lẫn nhau, hãy làm chứng cho niềm trông cậy không bao giờ thất vọng của tất cả chúng ta. Ngày nay, sự hợp tác trong lãnh vực xã hội đang được mở rộng rất nhiều, vì thế tất cả mọi người, nhất là những người tin vào Thiên Chúa, và đặc biệt các Kitô hữu, những người được mang danh hiệu của Đức Kitô, đều được mời gọi thực hiện công trình chung này. Sự hợp tác của toàn thể các Kitô hữu diễn tả cách sống động tình liên đới đang nối kết họ lại với nhau và biểu lộ khuôn mặt của Đức Kitô Tôi Tớ cách sáng tỏ hơn. Sự hợp tác này đã được thiết lập nơi nhiều quốc gia, vẫn đang cần được triển khai ngày càng hoàn thiện hơn, nhất là tại những vùng đang có những chuyển biến trong lãnh vực xã hội cũng như kỹ thuật, hoặc về vấn đề tôn trọng nhân phẩm, hoặc trong việc cổ vũ cho hoà bình, hay trong nỗ lực áp dụng Tin Mừng vào đời sống xã hội, hoặc về chương trình phát triển khoa học và nghệ thuật trong tinh thần Kitô giáo, hay trong cố gắng áp dụng các phương dược thích hợp để chữa lành những nỗi thống khổ của con người ngày nay, như tình cảnh đói khổ và thiên tai, nạn mù chữ, tình trạng nghèo túng, vô gia cư và phân chia của cải không đồng đều. Nhờ sự hợp tác ấy, tất cả những người tin vào Đức Kitô có thể dễ dàng tìm được cách để hiểu biết, tôn trọng nhau hơn và dọn đường tiến tới sự hợp nhất các Kitô hữu.

 

CHƯƠNG III
 

CÁC GIÁO HỘI VÀ CÁC CỘNG ĐỒNG GIÁO HỘI
ĐÃ LY KHAI KHỎI TÔNG TOÀ RÔMA

13.

Giờ đây, chúng ta hướng nhìn đến hai loại hình chia rẽ chính làm tổn hại chiếc áo liền một tấm của Đức Kitô.

Những chia rẽ đầu tiên đã xảy ra tại Đông phương, hoặc vì phản đối những định tín của các Công đồng Êphêsô và Calcêđônia, hoặc sau này vì cắt đứt hiệp thông Giáo Hội giữa các Giáo Chủ Đông phương và Toà Thánh Rôma.

Tiếp đến, hơn bốn thế kỷ sau, những cuộc ly khai khác phát sinh ở Tây phương do những sự kiện được gọi chung là phong trào Cải Cách. Từ đó, nhiều Cộng Đồng, quốc gia hoặc giáo đoàn đã tách rời khỏi Toà Thánh Rôma. Trong số những Cộng Đồng còn duy trì phần nào những truyền thống và cơ cấu Công Giáo, đáng kể nhất là Cộng Đồng Anh Giáo.

Tuy nhiên, các mối chia rẽ ấy lại rất khác nhau, không chỉ về nguồn gốc, không gian và thời gian, nhưng nhất là về bản chất và tầm quan trọng của các vấn đề liên hệ đến đức tin và cơ cấu Giáo Hội.

Vì thế, trong khi vẫn luôn lưu tâm đến những hoàn cảnh đa dạng của các Cộng đồng Kitô giáo ly khai, đồng thời cũng không bỏ qua sự kiện là, mặc dù đã có chia rẽ, nhưng vẫn còn những mối liên hệ đang nối kết họ với nhau, thánh Công Đồng quyết nghị đưa ra những nhận định sau đây để tiến hành việc thực hiện đầy thận trọng cho công cuộc đại kết.

I. NHẬN ĐỊNH ĐẶC BIỆT VỀ CÁC GIÁO HỘI ĐÔNG PHƯƠNG

14.

Trong nhiều thế kỷ, các Giáo Hội Đông và Tây phương đã đi theo con đường riêng của mình, nhưng vẫn liên kết với nhau nhờ tình hiệp thông huynh đệ trong đức tin và đời sống bí tích; qua những thỏa thuận chung, Toà Thánh Rôma can thiệp mỗi khi các Giáo Hội ấy bất đồng quan điểm với nhau về đức tin hay về kỷ luật. Thánh Công Đồng vui mừng nhắc lại cho mọi người một trong những nhận định quan trọng là có nhiều Giáo Hội riêng biệt hay địa phương đang phát triển ở Đông phương, đứng đầu là các Giáo Hội có Toà Thượng phụ, trong đó không ít Giáo Hội vẫn đáng hãnh diện vì được chính các Tông đồ thiết lập. Vì thế, nơi các tín hữu Đông phương, như đã từng thực hiện, và đến nay vẫn luôn phải dành mối quan tâm chăm lo đặc biệt cho việc duy trì, trong tình hiệp thông đức tin và đức ái, những mối liên lạc thân tình cần phải có giữa các Giáo Hội địa phương như là giữa những chị em với nhau.

Cũng đừng quên rằng, các Giáo Hội Đông phương ngay từ khởi đầu đã có được một kho tàng, trong đó Giáo Hội Tây phương đã kín múc được nhiều yếu tố về phụng vụ, truyền thống tu đức và luật pháp. Một sự kiện khác cũng đáng chú ý là những tín điều căn bản trong đức tin Kitô giáo như Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria đã được định tín trong các Công Đồng Chung khai diễn tại Đông phương. Các Giáo Hội ấy đã và đang còn phải chịu nhiều khổ đau để giữ gìn đức tin ấy.

Di sản do các Tông đồ truyền lại đã được đón nhận qua nhiều hình thức và cách thế khác nhau, và ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, di sản ấy đã được giải thích nhiều cách khác nhau do những dị biệt về hướng tư duy và điều kiện sinh hoạt. Đó là những yếu tố, cộng với các nguyên nhân bên ngoài, lại thêm vào thái độ thiếu bác ái và thông cảm lẫn nhau, đã tạo nên cơ hội đưa đến chia rẽ.

Vì vậy, Thánh Công Đồng khuyến khích mọi người, đặc biệt là những ai muốn góp phần tái lập sự hiệp thông trọn vẹn đang được kỳ vọng giữa các Giáo Hội Đông phương và Giáo Hội Công giáo, hãy nghiên cứu kỹ lưỡng về hoàn cảnh cá biệt đã khai sinh và phát triển các Giáo Hội Đông phương, cũng như về bản chất của những mối liên hệ đã từng có với Toà Thánh Rôma trước thời ly khai, đồng thời cũng hãy nêu lên những nhận định chính xác về tất cả những sự kiện ấy. Thực hiện những điều đó là đã đóng góp rất nhiều cho cuộc đối thoại đang được mọi người mong đợi.

15.

Ai cũng đều biết các Kitô hữu đông phương rất mộ mến việc cử hành Phụng vụ thánh, nhất là bí tích Thánh Thể, nguồn sống của Giáo Hội và bảo chứng cho vinh quang đời sau, nhờ đó, khi hợp nhất với Giám mục, được đến gần Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng đã chịu khổ nạn và được tôn vinh, được đầy Chúa Thánh Thần, các tín hữu thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Như vậy, nhờ việc cử hành Thánh Thể trong từng Giáo Hội địa phương, Giáo Hội Thiên Chúa được xây dựng và tăng trưởng1, đồng thời qua việc đồng tế, tình hiệp thông giữa các Giáo Hội được thể hiện thật rõ ràng.

Trong nghi lễ phụng vụ này, các tín hữu đông phương đã dùng những bài thánh thi tuyệt diệu để ca ngợi Đức Maria trọn đời đồng trinh, Đấng đã được Công Đồng Chung Êphêsô long trọng tuyên xưng là Mẹ rất thánh của Thiên Chúa, để Đức Kitô được thực sự nhận biết cách đích xác là Con Thiên Chúa và là Con Người theo Thánh Kinh, cùng lúc, họ cũng tôn kính nhiều vị thánh, trong số đó có các thánh Giáo phụ của toàn thể Giáo Hội.

Mặc dù ly khai, các Giáo Hội ấy vẫn có những bí tích đích thực, đặc biệt là bí tích Truyền Chức Linh Mục và bí tích Thánh Thể do sự kế vị tông truyền, nên vẫn liên kết chặt chẽ với chúng ta, vì thế, trong những trường hợp thuận lợi và với sự chuẩn nhận của giáo quyền, việc thông dự vào phụng tự thánh chẳng những có thể thực hiện mà còn đáng được khuyến khích.

Đông phương cũng có nhiều truyền thống tu đức phong phú, tiêu biểu nhất là đời sống đan tu. Thật vậy, tại đây, ngay từ thời vàng son của các thánh Giáo phụ, nền tu đức đan viện đã phát triển, sau đó mới lan truyền sang Tây phương, nên như mạch suối khởi phát nếp sống tu trì và từ đó mang lại nguồn sinh lực mới cho các dòng tu trong Giáo Hội latinh. Vì thế, người công giáo được tha thiết mời gọi hãy năng tìm đến kho tàng tu đức của các thánh Giáo phụ Đông phương với nguồn ơn phúc dồi dào giúp nâng cao con người toàn diện để chiêm ngưỡng những mầu nhiệm thánh thiêng.

Mọi người phải biết rằng, thông hiểu, kính trọng, giữ gìn và phát triển di sản phụng vụ và tu đức vô cùng phong phú của các tín hữu đông phương, là việc rất quan trọng để trung thành bảo toàn nguyên vẹn truyền thống Kitô giáo và để thực hiện sự hoà giải các Kitô hữu Đông phương với Tây phương.

16.

Ngoài ra, ngay từ buổi đầu, các Giáo Hội Đông phương đã có những kỷ luật riêng, được các thánh Giáo phụ và các Công Nghị, kể cả các Công Đồng Chung phê chuẩn. Như đã nói ở đoạn trên, những khác biệt về phong tục và tập quán không hề cản trở sự hợp nhất, nhưng đúng hơn lại làm tăng thêm vẻ đẹp của Giáo Hội và mang lại những hỗ trợ quý báu giúp Giáo Hội chu toàn sứ mệnh của mình, vì thế, để đánh tan mọi nghi ngờ, Thánh Công Đồng tuyên bố: các Giáo Hội Đông phương, trong khi luôn ý thức về sự hợp nhất cần phải xây dựng nơi toàn thể Giáo Hội, vẫn có quyền tự trị theo những kỷ luật riêng, vốn thích hợp hơn với tính cách của các tín hữu và có thể mưu ích cho các linh hồn nhiều hơn. Việc tuân giữ trọn vẹn nguyên tắc truyền thống này, điều không phải lúc nào cũng được thi hành, chính là một trong những điều kiện tiên quyết vô cùng cần thiết để tái lập sự hợp nhất.

17.

Những gì đã nói trên đây về sự khác biệt chính đáng, cũng được áp dụng cho sự đa dạng trong cách trình bày về thần học liên quan đến giáo lý. Thật vậy, Đông phương cũng như Tây phương đã sử dụng những phương pháp và cách thức khác nhau trong việc tìm hiểu chân lý mặc khải, để nhận biết và tuyên xưng những điều thuộc về Thiên Chúa. Do đó, không lạ gì khi thấy có một vài khía cạnh của mầu nhiệm mặc khải đôi lúc được một bên hiểu đúng và trình bày rõ ràng hơn bên kia, vì thế, những công thức thần học khác nhau ấy phải được coi là bổ túc cho nhau hơn là đối lập nhau. Điều phải công nhận là những truyền thống thần học chính thức của Giáo Hội Đông phương đã bám rễ cách tuyệt hảo trong Thánh Kinh, được khai triển và biểu lộ trong đời sống phụng vụ, được nuôi dưỡng bằng Truyền thống Tông đồ sống động và bằng những tác phẩm của các thánh Giáo phụ Đông phương cũng như của các tác giả tu đức, góp phần xây dựng một nếp sống chính trực, và nhất là giúp chiêm ngưỡng trọn vẹn chân lý Kitô giáo.

Trong tâm tình tạ ơn Chúa vì nhiều tín hữu Đông phương là con cái thuộc Giáo Hội Công giáo, những người đang giữ gìn và mong muốn hưởng dùng phần gia sản ấy cách tinh ròng và sung mãn hơn, vẫn sống hoàn toàn hiệp thông với các anh em thuộc truyền thống Tây phương, Thánh Công Đồng tuyên bố rằng, toàn bộ di sản tu đức và phụng vụ, kỷ luật và thần học trong các truyền thống khác biệt, đều gắn liền với đặc tính công giáo và tông truyền trọn vẹn của Giáo Hội.

18.

Với tất cả các nhận định trên, Thánh Công Đồng này lập lại điều đã được các Thánh Công Đồng trước cũng như các Đức Giáo Hoàng Rôma tuyên bố: để tái lập và duy trì sự thông hảo và hợp nhất, “đừng đặt thêm những gánh nặng không cần thiết” (Cv 15,28). Công Đồng cũng tha thiết ước mong rằng từ nay, mọi nỗ lực đều tập trung vào việc thực hiện dần dần sự hợp nhất trong những định chế và hình thức khác nhau của đời sống Giáo Hội, nhất là trong kinh nguyện và đối thoại huynh đệ về giáo lý, cũng như về các nhu cầu mục vụ khẩn thiết của thời đại chúng ta. Cũng thế Công Đồng khuyến khích các chủ chăn và tín hữu của Giáo Hội Công giáo hãy thiết lập mối giao hảo với những người không còn ở Đông phương, nhưng sống xa quê nhà, để gia tăng sự cộng tác huynh đệ trong tinh thần bác ái, và loại trừ những hình thức ganh đua, tranh tụng. Nếu mọi người thành tâm xúc tiến công cuộc này, Thánh Công Đồng hy vọng rằng, sau khi bức tường ngăn cách Giáo Hội Đông Tây bị phá đổ, sẽ chỉ còn ngôi nhà duy nhất được củng cố trên tảng đá góc là Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ liên kết cả hai nên một2.

II. CÁC GIÁO HỘI VÀ CÁC CỘNG ĐỒNG GIÁO HỘI LY KHAI TÂY PHƯƠNG

19.

Các Giáo Hội và các Cộng Đồng Giáo Hội đã tách rời khỏi Tông Toà Rôma trong thời kỳ khủng hoảng trầm trọng nhất phát sinh ở Tây phương vào cuối thời Trung Cổ hoặc về sau này, vẫn luôn nối kết với Giáo Hội Công giáo bằng một mối tương quan và những liên hệ đặc biệt nhờ vào việc đoàn dân Kitô giáo đã sống trong tình hiệp thông Giáo Hội lâu dài suốt những thế kỷ trước.

Các Giáo Hội và Cộng Đồng Giáo Hội ấy chẳng những khác với chúng ta, mà còn khác cả với nhau, do những dị biệt về nguồn gốc, giáo lý và đời sống tu đức, nên rất khó trình bày cho đúng về các Giáo Hội ấy, và ở đây chúng tôi không có ý thực hiện điều đó.

Mặc dù phong trào Đại Kết và ước vọng giao hoà với Giáo Hội Công giáo chưa được đề cao khắp nơi, nhưng chúng tôi vẫn hy vọng tất cả mọi người sẽ dần dần cảm nhận sâu xa hơn về ý thức đại kết và thái độ tôn trọng lẫn nhau.

Phải nhìn nhận rằng giữa các Giáo Hội và Cộng Đồng Giáo Hội ấy với Giáo Hội Công giáo có nhiều khác biệt quan trọng, không chỉ về đặc tính lịch sử, xã hội, tâm lý, văn hoá, nhưng nhất là về cách thức giải thích chân lý mặc khải. Để dễ dàng khởi xướng cuộc đối thoại đại kết, dù những khác biệt vẫn còn đó, sau đây chúng tôi muốn đưa ra một vài điều có thể và phải là nền tảng cũng như khởi điểm cho cuộc đối thoại ấy.

20.

Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Kitô hữu đang công khai tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Thiên Chúa, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, để làm vinh danh một Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần. Thật ra chúng tôi biết có những khác biệt không nhỏ đối với giáo lý của Giáo Hội Công giáo, cả về Đức Kitô Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, về công trình cứu chuộc, và do đó, về mầu nhiệm và tác vụ của Giáo Hội, cũng như về vai trò của Đức Maria trong công cuộc cứu độ. Tuy nhiên, chúng tôi vui mừng khi thấy các anh em ly khai vẫn hướng về Đức Kitô như là nguồn mạch và trung tâm của sự hiệp thông Giáo Hội. Chính ước vọng kết hiệp với Đức Kitô đã tác động và thúc đẩy họ càng ngày càng tìm về hợp nhất và làm chứng cho niềm tin của mình giữa các dân tộc.

21.

Lòng yêu mến, kính trọng và gần như tôn sùng Thánh Kinh đã thúc đẩy những người anh em của chúng ta kiên tâm và chuyên cần học hỏi các Bản Văn Thánh: vì Tin Mừng “là quyền năng Thiên Chúa để cứu rỗi mọi người tin theo, trước tiên là người Do Thái, kế đến là người Hy Lạp” (Rm 1,16).

Trong khi khẩn cầu Chúa Thánh Thần, họ kiếm tìm Thiên Chúa nơi chính Thánh Kinh, Đấng đang nói với họ trong Đức Kitô, Đấng đã được các tiên tri loan báo và là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể vì chúng ta. Trong Thánh Kinh, họ chiêm ngưỡng cuộc đời Đức Kitô và những gì Thầy Chí Thánh đã dạy và đã làm để cứu rỗi loài người, nhất là mầu nhiệm về sự chết và sự phục sinh của Người.

Tuy nhiên, trong khi các Kitô hữu đã tách rời khỏi chúng ta xác nhận uy thế thần linh của Sách Thánh, họ vẫn cảm nghĩ khác chúng ta - và khác cả với nhau - về sự liên quan giữa Thánh Kinh và Giáo Hội; trong vấn đề này, theo đức tin công giáo, huấn quyền chính thức giữ một vai trò đặc biệt trong việc giải thích và rao giảng Lời Chúa đã được ghi chép.

Nhưng dù sao đi nữa, trong chính việc đối thoại, Lời Chúa là dụng cụ tuyệt hảo nơi bàn tay toàn năng của Thiên Chúa, giúp đạt tới sự hợp nhất mà Đấng Cứu Thế đã bày tỏ cho mọi người.

22.

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, được trao ban đúng nghi thức như Chúa đã thiết lập và được lãnh nhận với điều kiện cần thiết của tâm hồn, con người được thật sự tháp nhập vào Đức Kitô chịu đóng đinh và được tôn vinh, đồng thời được tái sinh để thông phần sự sống Thiên Chúa theo lời Thánh Tông Đồ: “Anh em được mai táng với Người trong phép Rửa, anh em cũng sẽ được chỗi dậy với Người, bởi đã tin vào quyền năng Thiên Chúa, Đấng đã cho Người sống lại từ cõi chết” (Cl 2,12)3.

Vậy phép Rửa tạo nên mối dây bí tích hợp nhất tất cả những người đã được tái sinh. Tuy nhiên, phép Rửa, tự bản chất, mới chỉ là thời điểm bắt đầu và là bước khởi hành, vì đích điểm của bí tích này chính là đạt tới sự sống sung mãn trong Đức Kitô. Như thế, phép Rửa hướng đến việc tuyên xưng trọn vẹn đức tin, gắn kết trọn vẹn vào kế hoạch cứu rỗi như chính Đức Kitô mong muốn và sau cùng hoà nhập trọn vẹn vào sự hiệp thông Thánh Thể.

Những Cộng đồng Giáo Hội đã tách rời khỏi chúng ta, mặc dù không cùng chúng ta hưởng nhận sự hợp nhất đầy đủ khởi sinh từ phép Rửa, và mặc dù chúng ta tin rằng, chủ yếu vì thiếu bí tích Truyền Chức Thánh, họ đã không bảo toàn được bản chất đích thực và nguyên vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể, nhưng khi tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong nghi thức Tiệc Thánh, họ vẫn tuyên xưng rằng sự sống chỉ có ý nghĩa nhờ hiệp thông với Đức Kitô và luôn mong đợi ngày Người trở lại trong vinh quang. Vì thế, trong cuộc đối thoại, cần thảo luận những chủ đề giáo lý về Tiệc Thánh của Chúa, về các bí tích, việc phụng tự cũng như các thừa tác vụ của Giáo Hội.

23.

Đời sống Kitô hữu của các anh em ly khai được nuôi dưỡng bằng đức tin vào Chúa Kitô, được duy trì nhờ ân sủng của phép Rửa và nhờ lắng nghe Lời Chúa. Đời sống ấy được biểu lộ trong kinh nguyện riêng, trong việc suy niệm Thánh Kinh, trong đời sống gia đình Kitô hữu, trong việc phụng tự của cộng đoàn cùng tụ họp để ngợi khen Thiên Chúa. Ngoài ra, đôi khi việc phụng tự của họ cũng mang những yếu tố nổi bật thuộc nền phụng vụ cổ kính chung.

Đức tin vào Chúa Kitô đã kết sinh hoa trái trong lời ngợi khen và cảm tạ vì các ơn phúc thiêng liêng đã lãnh nhận; thêm vào đó là ý thức mạnh mẽ về đức công bình và tình bác ái chân thành đối với tha nhân. Đức tin sống động ấy cũng làm phát sinh không ít những tổ chức nhằm xoa dịu nỗi khổ đau tinh thần và thể xác, giáo dục giới trẻ, cải thiện những hoàn cảnh xã hội của cuộc sống được nên nhân đạo hơn và củng cố nền hoà bình thế giới.

Mặc dù nhiều Kitô hữu không phải lúc nào cũng hiểu Tin Mừng theo cùng một nghĩa như người công giáo trong những vấn đề luân lý, cũng như không chấp nhận cùng những giải quyết giống nhau về những vấn đề khó khăn của xã hội hiện đại, tuy nhiên, như chúng ta, họ cũng muốn gắn bó với lời của Đức Kitô như là nguồn sức mạnh của đời Kitô hữu và tuân theo lời Thánh Tông Đồ dạy: “Bất cứ điều gì anh em làm, trong lời nói hay trong hành động, anh em hãy làm tất cả nhân danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Đây chính là điểm có thể bắt đầu cuộc đối thoại đại kết về việc áp dụng luân lý của Tin Mừng.

24.

Sau khi đã trình bày vắn tắt những điều kiện và nguyên tắc hướng dẫn cho việc thực hiện công cuộc đại kết, chúng tôi tin tưởng hướng nhìn tới tương lai. Thánh Công Đồng khuyên các tín hữu hãy tránh bất cứ thái độ nhẹ dạ và nhiệt thành thiếu khôn ngoan nào có thể phương hại đến tiến trình hợp nhất. Thật vậy, hoạt động đại kết chỉ có thể thành tựu được, nếu hoàn toàn và thực sự mang tính công giáo, nghĩa là trung thành với chân lý chúng ta đã lãnh nhận từ các Tông đồ và các Giáo phụ, cũng như phù hợp với đức tin đang được Giáo Hội Công giáo tiếp tục tuyên xưng, đồng thời hướng tới sự sung mãn, nhờ đó Chúa muốn cho Thân Thể Người được tăng trưởng qua các thời đại.

Thánh Công Đồng luôn khẩn khoản nguyện ước cho những sáng kiến của con cái Giáo Hội Công giáo được hoà nhập với những sáng kiến của các anh em ly khai, cùng tiến hành mà không cản trở đường lối của Thiên Chúa Quan Phòng, cũng như không tạo thiên kiến về những tác động sau này của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, Thánh Công Đồng vẫn ý thức xác tín rằng, ước nguyện thánh thiện muốn hoà giải để hợp nhất toàn thể các Kitô hữu trong một Giáo Hội duy nhất của Đức Kitô, vượt quá sức lực và khả năng loài người. Vì thế, Thánh Công Đồng đặt trọn niềm hy vọng vào lời Đức Kitô nguyện cầu cho Giáo Hội, vào tình thương của Chúa Cha dành cho chúng ta, và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. “Niềm cậy trông không làm cho thất vọng: vì tình yêu của Thiên Chúa đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

 

Tất cả và từng điều được ban bố trong Sắc Lệnh này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964
Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)

 


1 x. 1 Cr 1,13.

1 x. Ga 4,9; Cl 1,18-20; Ga 11,52.

2 x. Ga 13,34.

3 x. Ga 16,7.

4 x. 1 Cr 12,4-11.

5 x. Mt 28,18-20, so sánh với Ga 20,21-23.

6 x. Mt 16,19, so sánh với Mt 18,18.

7 x. Lc 22,32.

8 x. Ga 21,15-17.

9 x. Ep 2,20.

10 x. 1 Pr 2,25; CĐ VATICANÔ I, Hiến chế Pastor „termus; Coll. Lac. 7, 482a.

11 x. Is 11,10-12.

12 x. Ep 2,17-18, so sánh với Mc 16,15.

13 x. 1 Pr 1,3-9.

14 x. 1 Cr 11,18-19; Gl 1,6-9; 1 Ga 2,18-19.

15 x. 1 Cr 1,11tt; 11,22.

16 x. CĐ FIRENZÊ, Khoá 8 (1439), Sắc lệnh Exultate Deo: Mansi 31, 1055A.

17 x. T. AUGUSTINÔ, In Ps. 32, Enarr. II, 29: PL 36, 299.

18 x. CĐ LATÊRANÔ IV (1215), Hiến chế IV: Mansi 22, 990; CĐ LYON II (1274), Tuyên xưng đức tin của Michael Pal„ologi: Mansi 24, 71E; CĐ FIRENZÊ, Khoá 6 (1439), Định tín L„tentur c„li: Mansi 31, 1026E.

19 x. Gc 1,4; Rm 12,1-2.

20 x. 2 Cr 4,10; Pl 2,5-8.

21 x. Ep 5,27.

1 x. LATÊRANÔ V, Khoá 12 (1517), Hiến chế Constituti: Mansi 32, 988B-C.

2 x. Ep 4,23.

3 x. Ep 3,8.

1 x. T. GIOAN KIM KHẨU, In Ioannem Homelia, XLVI: PG 59, 260-262.

2 x. CĐ FIRENZÊ, Khoá 6 (1439), Định tín L„tentur C„li: Mansi 31, 1026E.

3 x. Rm 6,4.

 

Tác giả: Ủy ban Giáo lý Đức tin
Nguồn: giaolyductin.net
Tag:

Các tin khác:


Các tin đã đưa ngày: